Giá trị nhân văn trong huấn dân đại cáo của Lê Thánh Tông

Tóm tắt Dưới thời vua Lê Thánh Tông, Nho giáo đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống chính trị và dần lan tỏa trong đời sống xã hội. Với chủ trương lấy các giá trị đạo đức của Nho giáo như “Tam cương, ngũ thường”, “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa”,. làm cở sở để xây dựng một đường lối trị nước thân dân mang đậm tính nhân văn, Lê Thánh Tông đã ban hành Huấn dân đại cáo nhằm đưa các giá trị đạo đức Nho giáo thấm sâu hơn nữa vào đời sống tinh thần của người dân ở các làng quê.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị nhân văn trong huấn dân đại cáo của Lê Thánh Tông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG HUẤN DÂN ĐẠI CÁO CỦA LÊ THÁNH TÔNG HOÀNG VĂN THẢO Tóm tắt Dưới thời vua Lê Thánh Tông, Nho giáo đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống chính trị và dần lan tỏa trong đời sống xã hội. Với chủ trương lấy các giá trị đạo đức của Nho giáo như “Tam cương, ngũ thường”, “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa”,... làm cở sở để xây dựng một đường lối trị nước thân dân mang đậm tính nhân văn, Lê Thánh Tông đã ban hành Huấn dân đại cáo nhằm đưa các giá trị đạo đức Nho giáo thấm sâu hơn nữa vào đời sống tinh thần của người dân ở các làng quê. Từ khóa: Giá trị nhân văn, Huấn dân đại cáo, Lê Thánh Tông, Nho giáo Abstract Under the reign of King Le Thanh Tong, Confucianism had a firm position in political life and gradually spread in social life. With the policy of taking the moral values of Confucianism such as “Three rules, five virtues”, “Loyal, Filial piety, Humanity, Righteousness”,... as a basis to build a way to govern the country and treat people which is full of humanity, Le Thanh Tong issued the People Training - great proclamation (Huấn dân đại cáo) to make the Confucian moral values endosmosis more deeply into the spiritual life of the people in every village. Keywords: Human values, People training - great proclamation, Le Thanh Tong, Confucianism Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỷ VI TCN và đã được du nhập vào Việt Nam từ hàng ngàn năm lịch sử trước. Trải qua quá trình du nhập và phát triển lâu dài, đến thế kỷ XV, nó đã có vị trí quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam, đồng thời cũng chi phối mạnh mẽ đến tư tưởng và đời sống tinh thần của nhân dân. Sự ảnh hưởng của nó không chỉ ở lĩnh vực chính trị và giới hạn trong giai cấp quý tộc mà nó còn đi sâu vào đời sống sinh hoạt thường ngày của người dân từ thành thị cho đến thôn dã. Những giá trị đạo đức căn bản của Nho giáo như “Tam cương, ngũ thường”, “Tam tòng, tứ đức”, “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa”,... được đưa vào giáo dục trong các gia đình và được coi là chuẩn mực đạo đức để đánh giá về nhân cách một con người. Dưới thời vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497), nhà nước Đại Việt đạt được sự phát triển cực thịnh về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quân sự cho đến văn hóa, giáo dục thi cử. Cùng với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo trong đời sống chính trị, Lê Thánh Tông đã ban hành Huấn dân đại cáo nhằm đưa các giá trị đạo đức Nho giáo thấm sâu hơn nữa vào đời sống tinh thần của người dân ở làng quê. Trải qua 500 năm lịch sử, tinh thần của Huấn dân đại cáo vẫn có những giá trị to lớn đối với công cuộc xây dựng, giáo dục giá trị nhân văn cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 1. Quá trình ảnh hưởng của Nho giáo đến nông thôn Việt Nam Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ II TCN gắn liền với sự xâm lược của nhà Hán từ phương Bắc. Lúc này, Nho Số 30 (Tháng 12 - 2019)36 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống và giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong kiến trúc thượng tầng của nhà Hán. Khi mới du nhập vào nước ta, Nho giáo là vũ khí tinh thần của quân xâm lược để đồng hóa nhân dân ta nên nó gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận với đời sống tinh thần người Việt. Hơn nữa, để xây dựng được chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền trung ương, nhà Hán đã đẩy những quan hệ cơ bản trong xã hội như: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ,... lên mức tuyệt đối, một chiều; đẩy những yếu tố đạo đức của Nho giáo như “Trung”, “Hiếu” lên mức cực đoan, khắc nghiệt; đưa ra các phạm trù “Tam tòng”, “Tứ đức” để ràng buộc và hạ thấp vai trò của phụ nữ, đẩy tư tưởng “trọng nam khinh nữ” lên cao. Trong khi đó, xã hội Việt Nam ở những thế kỷ II - I TCN vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của hình thái công xã nguyên thủy, dấu ấn của chế độ mẫu hệ vẫn ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn và đời sống dân gian. Chính vì thế, tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, tính khắc nghiệt cực đoan trong các quan hệ xã hội của Hán Nho là một trở ngại vô cùng lớn để nó có thể hòa nhập với đời sống tinh thần vốn có của người Việt. Trong khi đó, Phật giáo với tinh thần “từ bi hỷ xả”, mềm dẻo, khoan dung cũng được du nhập vào nước ta. Nó đã nhanh chóng thích nghi, hòa nhập và trở thành một thành tố quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt, đặc biệt là ở tầng lớp dưới, ở các làng quê. Với những trở ngại như vậy nên suốt nghìn năm Bắc thuộc, sự ảnh hưởng của Nho giáo ở nước ta mới chỉ dừng lại ở các trung tâm chính trị, các đô thị lớn và ở tầng lớp quý tộc thống trị mà chưa ảnh hưởng đến vùng nông thôn. Mặc dù số lượng nho sĩ người Việt cũng đông dần lên, sự học hành Nho học được khuyến khích và đã có những nho sĩ người Việt thành danh như Lý Cầm, Lý Tiến, Khương Công Phụ, Khương Công Phục,... nhưng đó chỉ là những trường hợp cá biệt chứ không phải phổ biến trong xã hội Việt Nam thời kỳ này. Đến thế kỷ X, phong trào đấu tranh chống Bắc thuộc của dân tộc đã giành thắng lợi. Nhu cầu cấp thiết của giai cấp phong kiến Việt Nam lúc này là củng cố và xây dựng nền độc lập tự chủ non trẻ của dân tộc. Trước yêu cầu khách quan đó, Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể trong việc xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền trung ương. Thông qua giáo dục thi cử, từ thế kỷ XII trở đi, Nho giáo dần dần có được vị trí trong kiến trúc thượng tầng của xã hội. Dưới các triều Lý - Trần, triều đình và tầng lớp nho sĩ cũng đã tìm mọi cách mở rộng sự ảnh hưởng và đưa Nho giáo về với đời sống sinh hoạt hàng ngày ở làng quê. Tuy vậy, phải đến nửa cuối thời Trần (thế kỷ XIV) trở về sau, khi Phật giáo bắt đầu mất dần vai trò thống trị trong kiến trúc thượng tầng thì Nho giáo mới có cơ hội và điều kiện để khẳng định vị thế của mình. Đặc biệt, khi nhà Lê được thành lập ở thế kỷ XV đã lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, đưa Nho giáo lên vị trí độc tôn trong kiến trúc thượng tầng xã hội, mở ra giai đoạn phát triển cực thịnh của Nho giáo ở Việt Nam. Từ sự xác lập vị thế trong kiến trúc thượng tầng, Nho giáo bắt đầu thâm nhập mạnh hơn về làng quê, nhằm tạo ra một xã hội với sự thống trị và ảnh hưởng tuyệt đối của nó. Giáo dục thi cử của Nho giáo đã hoàn thiện và phổ biến từ trung ương đến địa phương. Triều đình nhà Lê rất coi trọng việc phổ biến Nho học về làng xã nên hàng năm đều in sách phát miễn phí đến tận các phủ, huyện. Trong đó, Lê Thánh Tông là người rất chú trọng đến việc chuyển tải tư tưởng và giáo lý Nho giáo xuống đến tận cơ sở xã thôn, gia đình, đến các giai tầng xã hội. Năm 1461, tức chỉ hơn một năm sau khi lên ngôi, ông đã cho ban bố Huấn dân đại cáo (bao gồm 24 điều cốt yếu) để giảng dạy, tuyên truyền trong nhân dân. Việc ban hành Huấn dân đại cáo là một trong những dấu ấn quan trọng nhất đánh dấu sự thâm nhập của Nho giáo trong đời sống văn hóa nông thôn Việt Nam. 37Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 2. Những giá trị nhân văn trong Huấn dân đại cáo Theo Thiên Nam dư hạ tập [7], Huấn dân đại cáo có tất cả 24 điều giáo huấn. Trong đó, điều 1 và 2 quy định trách nhiệm của cha mẹ trong việc dạy dỗ con cái, trách nhiệm của gia trưởng đối với gia đình; điều 3 quy định về quan hệ vợ chồng; điều 4 quy định quan hệ anh em trong gia đình; điều 5 đề cập đến các mối quan hệ với họ hàng làng xóm; điều 6, 7, 8, 9, 10 quy định đạo lý và bổn phận của người phụ nữ; điều 11, 12 quy định nhiệm vụ và bổn phận của kẻ sĩ; điều 13 quy định bổn phận, trách nhiệm của quân, dân; điều 14 quy định trách nhiệm của người buôn bán; điều 15 quy định việc cưới gả, tế tự; điều 16 quy định về tục chèo hát, hội hè; điều 17 quy định việc hàng quán, nhà trọ; điều 18 quy định về giữ thuần phong mỹ tục; điều 19 quy định việc giảng giải cáo dụ; điều 20 quy định việc tố giác, trừng trị bọn hào cường xâm chiếm ruộng đất, ức hiếp nhân dân; điều 21 cấm các vương hầu và nhà đại thần cho nô tỳ đưa đồ đút lót; điều 22 khuyên các quan giữ chức trách chăn dân; điều 23 khuyên xã trưởng, thôn trưởng, phường trưởng siêng năng dạy bảo dân; điều 24 khuyên dân Man Lạo kính giữ luân thường. Như vậy, có thể thấy 24 điều giáo huấn của Lê Thánh Tông tập trung chủ yếu vào việc khuyên răn con người giữ gìn đạo đức, khuôn phép theo tinh thần mà Nho học truyền thống đã đặt ra với phương châm: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Huấn dân đại cáo bàn đến hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, bàn đến các mối quan hệ căn bản trong xã hội, đó là quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, làng xóm (bạn bè). Thứ hai, đề cập đến việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong Nho giáo truyền thống, khi bàn đến vấn đề đạo đức thì gia đình và các mối quan hệ trong gia đình được các nhà nho đặc biệt coi trọng. Họ coi đây là những quan hệ cốt lõi của xã hội, sẽ quyết định sự hình thành nhân cách con người, quyết định đến các quan hệ khác trong xã hội. Từ các quan hệ trong gia đình sẽ hình thành cho con người đức hiếu, đễ - là nền tảng của các phẩm chất đạo đức khác. Một người con bất hiếu sẽ không thể trở thành một tôi trung, cho nên Hiếu, Đễ là gốc của Trung. Tiếp tục quan điểm đề cao đạo đức cá nhân của Nho giáo truyền thống, đến giai đoạn Tống Nho, các nhà nho (tiêu biểu là Trình Di, Trình Hạo, Chu Hy,...) đã phát triển quan điểm này lên mức cao nhất, coi đạo đức như là một quy luật của trời đất và được gọi là “thiên lý”. Từ năm 1407 đến 1427, khi nhà Minh tiến hành Bắc thuộc lần thứ hai ở nước ta, quân xâm lược đã quyết tâm hủy diệt nền văn minh mà người Việt đã xây dựng được trong 5 thế kỷ độc lập tự chủ trước đó. Chúng đẩy mạnh hơn nữa việc truyền bá các học thuyết từ phương Bắc xuống nước ta, Tống Nho vì thế cũng đã được đưa vào đời sống tinh thần của người Việt. Khi khởi nghĩa thành công, xây dựng triều đại độc lập năm 1428, nhà Lê đã lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng độc tôn. Lúc này, Nho giáo Việt Nam ở thế kỷ XV đã có thêm sắc thái của Tống Nho với đặc trưng là đề cao luân thường đạo lý. Cũng vì những nguyên nhân lịch sử đó, dưới triều Lê, những phạm trù như “Cương thường”, “Trung”, “Hiếu”, “Nhân, “Nghĩa”,... được đề cao hơn bao giờ hết. Mở đầu cho khuynh hướng này, Nguyễn Trãi - đại công thần của nhà Lê đã từng viết: “Chữ học ngày xưa quên hết dạng/ Chẳng quên có một chữ cương thường” (Quốc âm thi tập). Tiếp tục đường lối đó, trong tư tưởng của mình, Lê Thánh Tông cũng đặc biệt đề cao vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức Nho giáo cho con người. Ông cho rằng “Người ta sở dĩ khác giống cầm thú là vì có lễ làm khuôn phép giữ gìn” [3, tr.652]. Chính vì vậy, khi xem xét quan hệ cha con, trước hết ông đã chỉ ra trách nhiệm và nghĩa vụ của bậc làm cha, làm mẹ trong việc nuôi dạy, làm gương cho con cháu. Ngay ở những điều đầu tiên trong Huấn thị, Lê Thánh Tông đã viết: “Cha mẹ dạy con phải có phép tắc, trai gái đều có nghề nghiệp, không được rượu chè, cờ bạc, tập nghề há t xướng để hại phong Số 30 (Tháng 12 - 2019)38 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA tục” (Điều 1), hơn nữa, “Người gia trưởng tự mình phải giữ lễ phép để cho cả nhà bắt chước, nếu con em làm càn thì bắt tội người gia trưởng” (Điều 2) [2, tr.258]. Như vậy, trong quan hệ này, bậc làm cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước hết đối với con cháu. Cha mẹ phải định hướng, giáo dục con cháu đi theo con đường chính đạo và tránh xa những việc xấu. Nếu con cái phạm lỗi thì trách nhiệm trước hết thuộc về sự dạy dỗ không nghiêm của cha mẹ. Vì vậy, ông yêu cầu người chủ gia đình phải là tấm gương, luôn trau dồi, rèn luyện, giữ Nhân, Lễ để con em trong nhà noi theo. Sự hưng vong hay suy tàn của một gia đình, một gia tộc, hay rộng hơn là của một quốc gia phụ thuộc vào đức hạnh của người đứng đầu. Ở đây, Lê Thánh Tông đã khẳng định vai trò quan trọng của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho con cái. Điều này phản ánh tinh thần cơ bản trong tư tưởng “Tu thân, tề gia” của Nho học. Khi bàn đến quan hệ vợ chồng, Lê Thánh Tông cũng đứng trên tinh thần Nho giáo mà chỉ ra rằng: “Làm đàn bà thì phải theo chồng, không được cậy cha mẹ mình phú quý mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ” [2, tr.259]. Xuất phát từ cơ sở sản xuất kinh tế nông nghiệp nhỏ (tiểu nông) đã tạo ra chế độ gia trưởng với tư tưởng về tôn ti trật tự đẳng cấp dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống, Nho giáo đã đưa ra các phạm trù Hiếu, Đễ, Tiết, Hạnh,... để củng cố quyền uy của người gia trưởng và tôn ti, trật tự trong gia đình. Từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng trong quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối sản phẩm và quan hệ phân công lao động, làm cho tư tưởng “trọng nam khinh nữ” có điều kiện phát triển, xuất hiện các phạm trù “Tam cương, ngũ thường” và đặc biệt là “Tam tòng, tứ đức”. Do vậy, quan hệ chồng vợ cũng mang tính tuyệt đối một chiều, “Phu xướng, phụ tùy”. Trong quan hệ này, Lê Thánh Tông cũng khẳng định vị thế quyết định của người chồng, người cha. Theo ông, người phụ nữ sau khi đã lập gia đình phải có trách nhiệm với nhà chồng, với con cái, thậm chí với cả con cái của thê thiếp của chồng. Lê Thánh Tông rất chú trọng quan hệ này nên ông dành riêng các điều 6, 7, 8, 9, 10 để quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của vợ đối với chồng và gia đình nhà chồng. Chẳng hạn, Điều 8 viết: “Người đàn bà góa chồng, đối với các con vợ cả hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương xót, không được mưu mô để chiếm đoạt gia tài làm của riêng mình” [2, tr.258], hoặc Điều 9 quy định: “Đàn bà góa chồng, chưa có con cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang lễ, không được chuyển vận của cải mang về nhà mình” [2, tr.259]. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo, nhưng cũng giống như Nguyễn Trãi, Nho giáo trong con người Lê Thánh Tông cũng không còn đơn thuần là Hán Nho hay Tống Nho mà đã có sự biến đổi phù hợp với khuynh hướng tư tưởng của dân tộc. Trong quá trình xâm nhập và tồn tại lâu dài ở nước ta, dưới ảnh hưởng và sự giao thoa với các tư tưởng truyền thống bản địa, với khuynh hướng ôn hòa, mềm dẻo của Phật giáo, Nho giáo đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với khuynh hướng tư tưởng và tinh thần nhân văn của dân tộc Việt Nam. Tinh thần nhân văn đó đã được thể hiện ngay trong đường lối cứu nước của Nguyễn Trãi khi ông viết “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” [6], hay thể hiện ở việc tha chết cho toàn thể hàng binh của nhà Minh, cấp lương thảo cho về nước... Tiếp nối tinh thần nhân văn đó, khi bàn về quan hệ chồng vợ, mặc dù đứng trên lập trường Nho giáo để xem xét nhưng Lê Thánh Tông không tuyệt đối hóa mối quan hệ này cũng như không tuyệt đối hóa vai trò của người chồng. Ông đã kết hợp với tinh thần coi trọng vai trò người phụ nữ trong truyền thống của dân tộc, đã dành cho người phụ nữ một vị trí nhất định trong xã hội. Vị trí đó của người phụ nữ được ông pháp điển hóa, dùng pháp luật để bảo vệ. Điều này được thể hiện trong Quốc triều hình luật với các điều khoản bảo vệ và bênh vực quyền lợi phụ nữ như: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và quan xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn một năm. Vì việc quan đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của 39Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA mình thì phải tội biếm” (Điều 308) [4, tr.127]. Hoặc: “Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái kêu quan mà trả lại đồ lễ. Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả lại đồ lễ, trái luật bị phạt 80 trượng” (Điều 322) [4, tr.130]. Với tinh thần nhân văn đó, trong Điều 3 của Huấn điều, Lê Thánh Tông viết: “Vợ chồng cần kiệm làm ăn, ân nghĩa trọn vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất xuất thì mới được bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung làm hại đến phong hóa” [2, tr.258]. Do vậy, khi phụ nữ đã phạm lỗi, ông cũng khuyên răn: “Đàn bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đã trừng trị thì nên phải sửa mình đổi lối, không được tự tiện trốn đi, làm hư mất nết đàn bà” [2, tr.258]. Như vậy, có thể thấy, Lê Thánh Tông đã xem xét các quan hệ cơ bản này dưới góc nhìn hai chiều, mềm dẻo. Trong các quan hệ đó, cả hai bên đều có trách nhiệm và nghĩa vụ để xây dựng một gia đình hòa hợp, vững mạnh. Ông chủ trương lấy tinh thần đạo đức của Nho giáo để giáo dục nhân dân, tạo nên một xã hội ổn định, hòa hợp, trong đó, cha mẹ có trách nhiệm với con cái, chồng vợ có ân nghĩa với nhau, anh em thân yêu, láng giềng làng xóm hòa thuận. Nếu làm cho các quan hệ đó đi vào trật tự, có trên dưới, nền nếp thì sẽ tạo ra một gia đình gia giáo, vững mạnh, sẽ góp phần tạo ra những làng quê gắn kết, tương thân tương ái, tạo cơ sở để đưa quốc gia phát triển hưng thịnh, vững mạnh. Ngoài việc tập trung giải quyết các mối quan hệ cơ bản trong gia đình theo tinh thần Nho giáo, trong Huấn dân đại cáo, Lê Thánh Tông còn khuyến khích nhân dân bảo vệ, nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục của dân tộc. Huấn điều quy định: “Chỗ dân gian có mở trường du hí hoặc cúng tế, thì con trai, con gái đến xem không được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm ô” (Điều 16) [2, tr.259]; “Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở tại để cấm con trai con gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt” (Điều 18) [2, tr.259]. Cũng giống như khi bảo vệ các giá trị đạo đức Nho giáo, ngoài việc giáo dục khuyên răn ra, ông cũng chủ trương dùng luật pháp để bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc, ai vi phạm sẽ dùng chế tài để xử phạt. Chính vì vậy, trong Quốc triều hình luật, nhà vua đã đưa ra những quy định chặt chẽ và những hình phạt nghiêm khắc để bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ lễ giáo phong kiến. Trong những tội bị quy vào “thập ác” có cả những tội chống lại đạo lý gia đình, sẽ bị điều chỉnh theo hệ thống hình phạt ngũ hình (suy, trượng, đồ, lưu, tử). Cụ thể: “Lăng mạ ông bà, cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài, đánh thì xử đi lưu châu xa, đánh bị thương thì xử tội giảo...” (Điều 475) [4, tr.182]; “Gian dâm với vợ kế, vợ lẽ của ông cha, với mẹ nuôi, mẹ kế, bác gái, thím, cô, dì, chị em gái của con cháu, con gái của anh em đều xử tội chém...” (Điều 406) [4, tr.158]. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định và khuyến khích nhân dân nuôi dưỡng tình thương yêu đồng loại, đồng tộc, đồng bào, phát huy nét đẹp truyền thống của dân tộc như những quy định tại Điều 294: “Trong kinh thành hay phường ngõ và làng xóm có kẻ đau ốm mà không ai nuôi nấng, nằm ở đường xá, cầu, điếm, chùa, quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà giữ gìn săn sóc, và cho họ cơm cháo thuốc men, cốt sao cứu cho họ sống, không được bỏ mặc cho họ rên rỉ khốn khổ...” [4, tr.122]), hay Điều 295: “Những người góa vợ, góa chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân thích để nương tựa, không thể tự mình mưu sống được, quan sở tại phải thu nuôi họ, mà lại bỏ rơi họ thì bị xử đánh 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được chu cấp cơm áo mà quan lại ăn bớt đi thì phải khép vào tội như người giữ kho ăn trộm của công” [4, tr.123]. Việc bảo vệ, nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục phải được thực hiện trong toàn cõi, không phân biệt thành thị hay nông thôn, vùng núi, biên ải hay đồng bằng. Chính vì vậy, Lê Thánh Tông cũng không quên nhắc nhở: “Các dân mường mán ở ngoài bờ cõi nên giữ lời di huấn, không được trái đạo luân thường như cha, anh, chú, bác đã chết thì con em không được chiếm lấy những thê thiếp (của họ), nếu mà trái phép thì sẽ trị tội rất nặng” [2, tr.260]. Số 30 (Tháng 12 - 2019)40 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Có thể thấy, những thuần