Tóm tắt: Bài viết tìm hiểu về vai trò của giáo dục đại học trong
đào tạo nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên số. Tác giả đề
cập đến những điểm còn bất cập trong đào tạo đại học ở Việt Nam
trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong kỷ nguyên số, từ
đó nêu lên một số khuyến nghị để các nhà quản lý giáo dục tham
khảo trong quản trị cơ sở giáo dục đại học hay ban hành các quy
định về giáo dục đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
đáp ứng yêu cầu thời đại cũng như sự phát triển của đất nước.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục đại học Việt Nam trong kỷ nguyên số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
Nguyễn Tất Đạt1*
Tóm tắt: Bài viết tìm hiểu về vai trò của giáo dục đại học trong
đào tạo nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên số. Tác giả đề
cập đến những điểm còn bất cập trong đào tạo đại học ở Việt Nam
trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong kỷ nguyên số, từ
đó nêu lên một số khuyến nghị để các nhà quản lý giáo dục tham
khảo trong quản trị cơ sở giáo dục đại học hay ban hành các quy
định về giáo dục đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
đáp ứng yêu cầu thời đại cũng như sự phát triển của đất nước.
Từ khóa: Giáo dục; Giáo dục đại học; Kỷ nguyên số.
1. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
Sang thế kỷ XXI, nền sản xuất xã hội của con người đã nhảy vọt
về năng xuất lao động với sự tham gia ngày càng nhiều của yếu tố
tri thức trong sản xuất: “Trong thời kỳ này kỹ năng và tri thức của
con người trở thành tài sản chính của mọi tổ chức, mọi quốc gia. Thay
vì chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì các công ty và xã hội
phát triển chuyển sang chú trọng vào việc chiếm dụng và thu hút các
nguồn tài năng và chất xám con người trên toàn thế giới”[2, tr. 11]. Tri
thức trong kỷ nguyên số sẽ là nhân tố sản xuất vô cùng độc đáo thay
thế tài nguyên, cơ bắp, vượt mọi khoảng cách địa lý, văn hóa, tri thức
là nguồn tài nguyên khai thác mà không mất đi: “Tri thức với tư cách
là nguồn tài nguyên chủ chốt sẽ thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội,
sáng tạo ra động lực phát triển mới, đồng thời thông qua sự chuyển
hóa hiện thực của các cá thể thay đổi tiến trình của sự sống”[8, tr. 8].
∗ Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
192
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Trong diễn biến của các cuộc cách mạng công nghiệp, sự kết hợp giữa
động cơ hơi nước với cơ giới hóa đã làm bùng nổ năng xuất lao động
và dẫn đến cách mạng công nghiệp. Ngày nay, sự kết hợp giữa máy
tính và hệ thống mạng phân tán dẫn đến cuộc cách mạng số và tạo
điều kiện cho mọi người có thể truy cập cũng như tạo ra thông tin
mới. Trong kỷ nguyên số hóa, giáo dục đại học sẽ thay đổi sâu rộng
để có thể bù đắp sự thiếu hụt lao động trình độ cao, có chuyên môn,
kỹ năng do yêu cầu từ công nghệ số hóa trong hoạt động kinh tế xã
hội. Vậy tri thức là gì? Theo cuốn Hán - Việt tự điển của Thiều Chửu thì:
“Tri là biết, phàm cái gì về tâm mình nhận biết, phán đoán toan tính,
ghi nhớ được đều gọi là tri, tri còn có nghĩa là ghi nhớ là làm chủ”[3,
tr. 524] còn: “Thức là biết, thấy mà phân biệt được, nhận biết được”
[3, tr. 787]. Tri thức của loài người được kiểm định qua thực tiễn trở
thành tri thức khoa học và càng ngày tri thức càng khẳng định sức
mạnh to lớn của nó qua các cuộc cách mạng khoa học công nghệ: “Ở
thời điểm này (Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất) tại Anh quốc
xuất hiện quyền tác giả nhằm cổ vũ việc ứng dụng tri thức vào sản
phẩm, công cụ và công nghệ. Thành thử kinh nghiệm biến thành tri
thức, học nghề biến thành sách giáo khoa, kỹ thuật bí truyền thành
phương pháp, kỹ năng biến thành tri thức có thể ứng dụng được”
[6, tr. 24]. Dưới đây là bảng so sánh 4 cuộc cách mạng công nghiệp:
Cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất
Cách mạng
công nghiệp
lần thứ hai
Cách mạng công
nghiệp lần thứ ba
Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
Diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII
xuất phát ở nước Anh. Cuộc
cách mạng bát đầu với sự phát
triển sản xuất hàng hóa của
ngành công nghiệp dệt. Sau
đó cùng với việc cung cấp máy
móc và năng lượng cho công
nghiệp dệt, các kỹ thuật gia
công sắt thép được cải thiện và
than đá được sử dụng với khối
Bắt đầu vào
khoảng thập
niên 1850 khi các
tiến bộ kinh tế và
kỹ thuật có được
nhờ phát triển
tàu hơi nước,
đường sắt. Đến
cuối thế kỷ XIX
động lực của
Bắt đầu khoảng năm
1969 khi có các tiến
bộ về hạ tầng điện
tử, máy tính và công
nghệ kỹ thuật số trên
nền tảng là sự phát
triển của các chất bán
dẫn, siêu máy tính
(thập niên 1960),
máy tính cá nhân
Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư nảy
nở từ cuộc cách mạng
lần 3, nó kết hợp các
công nghệ lại với nhau,
làm mờ ranh giới giữa
vật lý, kỹ thuật số và
sinh học... Cách mạng
công nghiệp 4.0 sẽ
diễn ra trên 3 lĩnh vực
193
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
lượng lớn. Thương mại mở
rộng tạo điều kiện ra đời cho
kênh đào giao thông và đường
sắt. Bên cạnh đó, đường giao
thông được nâng cấp với quy
mô lớn. Động cơ hơi nước sử
dụng nhiên liệu than và máy
móc dẫn động bằng cơ khí đã
khiến năng suất lao động tăng
đột biến
cuộc cách mạng
công nghiệp là
động cơ đốt trong
và máy móc sử
dụng điện.
thập niên 1970 và
1980 và Internet thập
niên 1990. Cho đến
cuối thế kỷ XX, quá
trình này cơ bản hoàn
thành nhờ những thành
tựu khoa học – công
nghệ cao
chính gồm: Công nghệ
sinh học, Kỹ thuật số
và Vật lý. Những yếu
tố cốt lõi của Cách
mạng 4.0 sẽ là: Trí tuệ
nhân tạo (AI); Vạn vật
kết nối - Internet of
things (IoT) và dữ liệu
lớn (Big Data)
(Nguồn: AlManach. Những nền văn minh thế giới.
NXB Hồng Đức, 2018. Tr.2680, 2681.)
Hiện nay lao động rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh, trong kỷ
nguyên số đòi hỏi lao động phải có trình độ, kỹ năng được đào tạo ở
trình độ cao: “Lao động trình độ cao là một bộ phận của nguồn nhân
lực đang làm việc ở những vị trí lãnh đạo, chuyên môn kỹ thuật bậc cao
và chuyên môn kỹ thuật bậc trung. Lao động trình độ cao có đặc điểm
là thường được đào tạo ở trình độ cao đẳng trở lên; có kiến thức và kỹ
năng để làm các công việc phức tạp; có khả năng thích ứng nhanh với
những thay đổi của công nghệ và vận dụng sáng tạo những kiến thức,
những kỹ năng đã được đào tạo trong quá trình lao động sản xuất”[4].
Trên thực tế một bộ phận lao động trình độ cao thường là những người
trực tiếp làm việc tại các vị trí có liên quan mật thiết tới sự ra đời, phát
triển, truyền bá và ứng dụng tri thức, trong đó có các cơ sở giáo dục
đại học. Tri thức là điều kiện tiên quyết để trường đại học khẳng định
giá trị của mình với người học cũng như xếp hạng thứ bậc trong đội
ngũ các cơ sở giáo dục đại học: “Trường đại học của thế kỷ XXI sẽ có
một không gian trí thức lớn hơn nhiều, đặt nền móng trên kỹ thuật cao
trong việc giảng dạy, trên những giá trị, ý tưởng, trên dòng chảy thu
nhập và tính hợp pháp về chính trị xã hội hơn là dựa trên một không
gian vật chất với những toà nhà cụ thể. Trong bất cứ trường hợp nào,
các cơ quan tổ chức và cá nhân được coi là khởi phát một môi trường
trong đó tạo ra, khuyến khích, củng cố và đánh giá cao những cách
giảng dạy đáng mong muốn sẽ vẫn là những nhân tố cốt yếu”[6].
194
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
Trong kỷ nguyên số giáo dục đại học có vai trò rất lớn. Thứ nhất
giáo dục giúp khám phá về tính chất, thành phần của nguyên, nhiên,
vật liệu mới, đến các quy trình công nghệ mới, thiết kế, chế tạo để
hình thành sản phẩm, hàng hóa, đến cách thức quảng cáo tiêu thụ
sản phẩm trong nền kinh tế tri thức. Tri thức khoa học, công nghệ mới
qua giáo dục đại học được truyền thụ đến người học tạo ra người lao
động có trình độ cao hơn những người không qua trường lớp. Thứ
hai, giáo dục đại học giúp người học hình thành các kỹ năng, các bước
thực hành thực nghiệm, năng lực thao tác sử dụng thiết bị công nghệ
mới, để hình thành các ngành khoa học công nghệ mới như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng mới, các tiến bộ y học, được
truyền thụ thông qua giáo dục đại học sẽ giúp đào tạo những lao động
trình độ cao đáp ứng cho thời đại công nghệ số.
Ngoài ra, giáo dục đại học giúp con người có niềm tin nội tâm.
Một người được giáo dục đúng cách sẽ có tri thức để hiểu biết thế giới,
hiểu biết hòa nhập được xã hội và tự mình khẳng định giá trị bản thân,
từ đó họ có niềm tin vào cuộc sống, tạo ra sức mạnh và sự thành công
cho chính họ: “Từ xưa đến nay, rất nhiều người thất bại không phải do
bất tài, mà do thiếu tự tin. Tự tin biến cái không thể thành cái có thể,
cái có thể trở thành hiện thực. Tự tin một phần thành công một phần;
tự tin mười phần thành công mười phần”[8, tr. 293].
Để có được tri thức, các trường đại học phải có được đội ngũ tinh
hoa với những giáo sư và giảng viên giỏi, trong trường đại học luôn có
viện nghiên cứu, thư viện để sẵn sàng hỗ trợ các nhà khoa học sản sinh
tri thức, đổi mới tri thức, cập nhật tri thức, nâng cao tri thức để truyền
thụ tri thức. Muốn có được điều đó cần có tự do học thuật, nước Pháp và
Đức đã tuyên bố tách nhà trường ra khỏi nhà thờ và đã làm nên những
trường đại học danh giá. Ở Việt Nam trong Luật Giáo dục đại học sửa đổi
bổ sung năm 2018 tại Khoản 3 Điều 32 quy định “Quyền tự chủ trong
học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức
thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng, chính sách chất lượng, mở ngành,
tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong và
ngoài nước phù hợp với các quy định của pháp luật”. Luật chưa nói về
195
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
tự do học thuật mà chỉ quy định tự chủ trong quá trình hiện đại hóa các
trường đại học. Trong xu thế cạnh tranh và xếp hạng thứ bậc các trường
đại học trên thế giới, chúng ta không nên tự hạn chế các điều kiện để
làm mất đi khả năng cạnh tranh của mình. Một so sánh thực tế tuy hơi
khiên cưỡng nhưng cũng giúp ta nhìn vấn đề rõ hơn, đó là những thập
kỷ trước trong giải bóng đá vô địch quốc gia, rất nhiều người yêu mến
đội Câu lạc bộ quân đội (Thể Công) với lối đá giàu sức mạnh, giàu ý chí,
chiến thuật hợp lý đội đã giành nhiều thành tích cao. Khi hội nhập bóng
đá quốc tế, giải bóng đá vô địch quốc gia cho phép ngoại binh tham gia
các đội bóng, riêng đội Thể Công nhất định không lấy cầu thủ ngoại (tự
hạn chế điều kiện của mình), kết quả là đội Thể công không cạnh tranh
được các đội bóng khác. Ở Việt Nam theo các đánh giá của Viện Khoa
học lao động xã hội thì chất lượng lao động vẫn ở trình độ khá thấp:
“Theo một nghiên cứu gần đây của Viện Khoa học lao động xã hội, hiện
năng suất lao động ở Việt Nam và trình độ quản trị doanh nghiệp rất
thấp và hiện 2/3 người lao động đang thiếu hụt kỹ năng về lao động
và kỹ thuật; 55% số doanh nghiệp cho rằng rất khó tìm kiếm nguồn lao
động có chất lượng cao. Trong khi trên 60% số doanh nghiệp FDI đang
có kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam, nhưng nếu không nâng cao
chất lượng nguồn lao động thì rất khó có thể thu hút đầu tư”[5].
Đối với sản phẩm trường đại học thì: “Rất nhiều doanh nghiệp
phản ánh học sinh, sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu
của doanh nghiệp. Năm 2012, Ngân hàng Thế giới công bố kết quả
khảo sát về mức độ đáp ứng các kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại
học so với yêu cầu của nhà tuyển dụng tại 7 quốc gia Đông Á, trong đó
có Việt Nam: “Thái độ làm việc được đánh giá ở mức thiếu hụt nghiêm
trọng; các kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng công nghệ thông tin, kỹ
năng lãnh đạo, kỹ năng giải quyết vấn đề thiếu hụt lớn”[7].
2. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO
LAO ĐỘNG TRÌNH ĐỘ CAO TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
Một là thay đổi cơ cấu chương trình đào tạo. Các nhà đầu tư cũng
như tuyển dụng lao động quốc tế hầu như có chung nhận định rằng
196
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
lao động Việt Nam có nhiều ưu điểm nhưng rào cản ngôn ngữ và yếu
tố kỷ luật, thể lực là điểm yếu của lao động Việt Nam. Để khắc phục
tình trạng này cũng như đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức,
các cơ sở giáo dục Việt Nam trong đó có giáo dục đại học cần yêu cầu
đưa Anh ngữ (tiến tới là ngôn ngữ thứ hai) và công nghệ thông tin là
những học phần bắt buộc, nền tảng, cơ bản với yêu cầu cả tuyển chọn
đầu vào và tốt nghiệp đầu ra. Nếu quá trình đào tạo đại học, người học
nhuần nhuyễn được kiến thức, kỹ năng của các học phần này sẽ là nền
tảng chắc chắn cho quá trình khởi nghiệp cũng như tự học, tự sáng
tạo để thành công sau khi ra trường. Các học phần đại cương khác cần
rút gọn để người học dựa trên công nghệ thông tin có thể tự học, tự
nghiên cứu và tham khảo các tài liệu kể cả tài liệu nước ngoài khi vốn
ngoại ngữ của họ được cải thiện.
Hai là, khuyến khích thúc đẩy các nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ của cơ sở giáo dục đại học, gắn kết với thị trường,
những đòi hỏi nhu cầu của xã hội, cần được xem là tính cấp thiết của
các đề tài nghiên cứu. Khi Nhà nước giao quyền tự chủ cho các trường
đại học không có nghĩa Nhà nước buông tay trong các vấn đề đào tạo
nhân lực quốc gia, vì vậy Nhà nước vẫn phải đầu tư cho các trường đại
học bằng việc rót các khoản tài trợ cho các đề tài nghiên cứu đặc biệt là
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu có tính nhân đạo thông qua các cơ quan
quản lý ngân sách nhà nước. Mặt khác, Nhà nước quy định rõ hơn khi
để các trường tiếp cận nhu cầu thị trường, gắn nhà trường với doanh
nghiệp, các sản phẩm khoa học được thương mại hóa và bản thân quá
trình đào tạo, Nhà nước cũng cần làm rõ trong mối quan hệ với thị
trường. Tất nhiên hành vi làm bằng giả, mua bán, gian lận điểm là
phạm pháp chứ không phải là hành vi thương mại.
Thứ ba, tăng cường liên kết với doanh nghiệp hỗ trợ khởi nghiệp,
một mặt để biết được nhu cầu của người sử dụng lao động, từ đó đổi
mới nội dung chương trình đào tạo, một mặt để định hướng, đào tạo
kỹ năng cho sinh viên, nghiên cứu sinh hướng đến những ngành, nghề
mũi nhọn mà kỷ nguyên số đang có nhu cầu để giúp họ khởi nghiệp vì
mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.
197
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
Thứ tư, đổi mới cơ cấu tổ chức trong trường đại học và các mối liên
hệ bên trong, bên ngoài nhà trường. Theo cách thức quản lý hoạt động
các trường đại học ở Việt Nam hiện nay thì Việt Nam có các trường công
lập, các trường dân lập, tư thục, các trường liên doanh có vốn nước
ngoài. Các trường công lập chiếm số đông và cách thức vận hành quản
lý thường phụ thuộc nhiều vào cơ quan chủ quản cấp trên bao gồm: Bộ,
cơ quan ngang bộ; UBND tỉnh (đại học địa phương); tổ chức chính trị; tổ
chức chính trị xã hội, các tổng công ty, tập đoàn. Các cơ quan chủ quản
chi phối các vấn đề nhân sự, tài chính, tổ chức đến các hoạt động nghiên
cứu khoa học, các trường đại học bị chi phối bởi mệnh lệnh hành chính
theo trật tự thứ bậc, các giáo sư, các giảng viên giỏi nếu không có vị trí
quản lý thì thường bị chi phối, bị gây khó dễ từ các thủ tục hành chính,
cán bộ quản lý hành chính. Điều kiện làm việc của phó giáo sư có nơi
không bằng viên chức quản lý hành chính và chịu sự điều hành cứng
nhắc theo thẩm quyền hành chính. Cách thức quản lý này dưới thời bao
cấp là phổ biến và còn đang vận hành ở một số cơ sở đào tạo. Hiện nay
theo Luật Giáo dục đại học sửa đổi bổ sung năm 2018, trường đại học
được giao nhiều quyền tự chủ hơn cả trong vấn đề tổ chức, nhân sự, tài
chính, tuyển sinh. Hội đồng trường theo quy định tại Điều 16, Điều 17
Luật Giáo dục đại học 2018 được quy định nhiều quyền điều hành cho
tổ chức quản trị trường đó là hội đồng trường cả trường công lập, trường
tư thục, trường tư thục phi lợi nhuận. Đây là mô hình của các nước có
trường đại học phát triển ở châu Âu. Mô hình quản trị trường đại học
hiên đại là như vậy nhưng vận hành trong điều kiện của Việt Nam lại là
vấn đề cần bàn. Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố chi phối đến trường đại
học và ngay cả bản thân các trường đại học công lập vẫn còn tư tưởng
dựa dẫm, chưa tự khẳng định vị thế của mình trước xã hội.
Thứ năm, cần xây dựng các tiêu chí chất lượng và hệ thống tiêu
chuẩn quốc gia về năng lực nghề nghiệp có tham khảo quốc tế, đồng
thời tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có
danh tiếng của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào
quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo
dục đại học Việt Nam; xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để định
hướng cho đào tạo nhân lực theo nhu cầu của nền kinh tế số; tạo điều
kiện để thực hiện xã hội học tập, học suốt đời, học ở mọi nơi mọi lúc.
198
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
3. THAY LỜI KẾT
Thực tiễn cho thấy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai và
là đầu tư thành công nhất. Trong truyền thống người Việt đều rất trọng
giáo dục, coi học hành thi cử là con đường lập thân, lập nghiệp. Hiện nay
những gia đình giàu có đều chi rất nhiều tiền cho con cái học ở những
nước có nền giáo dục đại học phát triển. Trong kỷ nguyên số, giáo dục đại
học lại càng cần thiết hơn nữa vì đòi hỏi của xã hội hiện đại với nền kinh
tế số phát triển rất nhanh. Trường Đại học Hoa Sen, Đại học Quốc gia Hà
Nội và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh là những trường đại học đã lọt
vào trường có thứ hạng cao trong khu vực và trên thế giới. Đây là sự cố
gắng đầy khích lệ cho giáo dục đại học ở Việt Nam. Tuy nhiên so với yêu
cầu của kỷ nguyên số đối với lao động trình độ cao thì các cơ sở đào tạo
đại học của Việt Nam cần mạnh mẽ đổi mới sáng tạo hơn nữa cả về mô
hình tổ chức, cơ chế quản lý, chương trình và nội dung đào tạo để kích
hoạt năng lượng sáng tạo của người dạy và người học, tiến tới người Việt
thành công ngay khi học trong nước mà không cần phải học ở nước ngoài
mới có sự thành đạt về danh tiếng. Về phía Nhà nước, cần đầu tư mạnh
mẽ cho giáo dục nhất là thay đổi quan điểm, chính sách để gần với các
nước có nền giáo dục đại học tiên tiến. Ngoại ngữ và công nghệ thông tin
nên được quy định là kiến thức phổ thông phổ cập, được khuyến khích
và giảm hoặc miễn học phí cho tất cả các bậc học, coi đó vừa là đầu tư cho
giáo dục vừa là đầu tư cho cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là những
điều kiện cần cho kỷ nguyên số trong thời đại ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AlManach (2018), Những nền văn minh thế giới, NXB Hồng Đức.
2. James L. Bess (Chủ biên), Nền tảng giáo dục đại học Mỹ, NXB Simon và
Schuster Cusom.
3. Thiều Chửu (2006), Hán -Việt tự điển, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
4. Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước, KX.01/11-15, Các giải pháp
nâng cao chất lượng lao động Chuyên môn kỹ thuật trình độ cao đáp ứng yêu cầu
phát triển nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH, ILSSA 2013.
5. Hương Giang, "Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ hội nhập:
cơ hội và thách thức", Tạp chí Tài chính. Thứ 7 ngày 5/9/2020.
199
QUẢN TRỊ TRI THỨC ĐỐI VỚI QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC TẠI DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ SỐ
6. Gayle, Dennis John, Tewarie, Bhoendradatt, White, A. Quinton, Jr. Người
dịch: Phạm Thị Ly (2011), Quản trị trường đại học thế kỷ 21: Quản lý Chiến
lược và Lãnh đạo có hiệu quả, https://www.lypham.net/?p=721.
7. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2014), Bản tin tóm tắt chính sách, số 1, tr.3.
8. Thế Trường (2004), Hành trang thời đại kinh tế tri thức, NXB Giao thông vận
tải. Hà Nội;
8. John Vũ (2016), Giáo dục trong thời đại tri thức, NXB Lao động, Hà Nội.