Cơ thể chỉ có một tế bào, nhưng là những cơ thể độc lập nên các phần của
cơ thể phân hóa phức tạp thành các cơ quan tử (organelle) để thực hiện các chức
phận khác nhau. Cũng có các nhóm cấu tạo gồm nhiều cá thể (tập đoàn) có mối liên
hệ nhiều hay ít. Hầu hết có kích thước hiển vi, tuy nhiên một số nhóm có thể nhìn
thấy bằng mắt thường: Nhỏ nhất chỉ dài từ 2 - 4µm như họ Pyroplasmidae, kích
thước trung bình là 50 - 150µm, một số động vật nguyên sinh có kích thước lớn từ
vài mmđến vài cm như trùng lôngbơi Bursalia dài 1,5mm, trùng hai đoạn Porospora
giganteadài khoảng 1cm,một số trùng có lỗ có đường kính vỏđạt tới 5 - 6cm.
276 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Động vật không xương sống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo trình
Động vật không xương sống
Chương 1.
Phân giới Động vật Nguyên sinh (Protozoa)
I. Đặc điểm chung của Động vật nguyên sinh
Là nhóm động vật có khoảng 38.000 loài đang sống và 44.000 loài hóa thạch,
có chung các đặc điểm sau.
1) Cơ thể chỉ có một tế bào, nhưng là những cơ thể độc lập nên các phần của
cơ thể phân hóa phức tạp thành các cơ quan tử (organelle) để thực hiện các chức
phận khác nhau. Cũng có các nhóm cấu tạo gồm nhiều cá thể (tập đoàn) có mối liên
hệ nhiều hay ít. Hầu hết có kích thước hiển vi, tuy nhiên một số nhóm có thể nhìn
thấy bằng mắt thường: Nhỏ nhất chỉ dài từ 2 - 4µm như họ Pyroplasmidae, kích
thước trung bình là 50 - 150µm, một số động vật nguyên sinh có kích thước lớn từ
vài mm đến vài cm như trùng lông bơi Bursalia dài 1,5mm, trùng hai đoạn Porospora
gigantea dài khoảng 1cm, một số trùng có lỗ có đường kính vỏ đạt tới 5 - 6cm.
2) Tế bào của động vật nguyên sinh gồm có tế bào chất và nhân. Tế bào chất
có một đặc tính rất cơ bản là luôn luôn biến đổi từ trạng thái lỏng sang trạng thái đặc
(sol gel). Thường tế bào chất được chia thành 2 lớp: Lớp ngoài quánh và đồng
nhất (gọi là ngoại chất), lớp trong lỏng hơn, dạng hạt (gọi là nội chất). Nội chất chứa
nhiều cơ quan tử, trong đó quan trọng nhất là nhân tế bào. Nhân tế bào có cấu tạo
và thành phần cơ bản giống với nhân của động vật bậc cao. Kích thước, lượng dịch
nhân, hình dạng và cách sắp xếp của nhân thay đổi tùy nhóm (hình 1.1).
3) Ngoại chất thường hình thành phía ngoài một màng mỏng gọi là màng phim
(pellicula), là một phần chất sống của cơ thể động vật nguyên sinh. Ở một số động
vật nguyên sinh, ngoại chất tiết ra trên bề mặt cơ thể một lớp vỏ đặc biệt không có
đặc tính của một màng sống mà là một loại vỏ cứng được gọi là màng cuticula cứng
bao quanh cơ thể. Vỏ này có thể ngấm thêm SiO2, CaCO3, SrSO4... để tăng khả
8
Hình 1.1 Nhân của động vật nguyên sinh (theo Borrer)
A - F. Nhân của Trùng có tơ (Ciliata) với nhân nhỏ và nhân lớn:
A. Stentor; B. Opalina; C. Paramecium; D. Vorticella; E. Spirostomium; F. Fphelota
G - H. Kiểu nhân túi: G. Endamoeba; H. Entamoeba; I. Endolimax; J. Túi nhân
Nhân nhỏ
Nhân lớn
Thể nhiễm sắc Thể nhân Hạch nhân
năng bảo vệ và nâng đỡ cho cơ thể. Ngoài ra một số động vật nguyên sinh còn có vỏ
cơ thể cấu tạo bằng chất cellulose rất điển hình như thực vật.
chân giả, Trùng roi bằng sự di chuyển của roi để đưa thức ăn và dưỡng khí vào,
Trùng lông bơi dùng chất độc của tế bào chích làm tê liệt con mồi, Trùng hai đoạn
bám vào ruột vật chủ để hút dinh dưỡng... (hình 1.3).
7) Bài tiết, điều hòa áp suất thẩm thấu của động vật nguyên sinh là các không
bào co bóp. Khi hoạt động chúng vừa thải các chất cặn bã vừa đẩy lượng nước thừa
ra ngoài để điều hòa áp suất thẩm thấu của tế bào. Nhờ đó động vật nguyên sinh
sống ở nước ngọt không bị phá vỡ cơ thể khi nước từ môi trường bên ngoài xâm
nhập vào trong cơ thể (hình 1.4).
8) Động vật nguyên sinh không có cơ quan hô hấp chuyên biệt. Khí O2 hòa tan
trong nước khuyếch tán vào cơ thể qua màng tế bào. Một số động vật nguyên sinh
sống ký sinh có khả năng hô hấp kỵ khí cho nên khí O2 tự do gây độc cho chúng.
Động vật nguyên sinh có khả năng hình thành bào xác khi gặp điều kiện sống bất lợi.
9) Động vật nguyên sinh có một số hình thức sinh sản khác nhau: Sinh sản vô
tính là hình thức phổ biến (sự phân đôi, nảy chồi, liệt sinh…) Sự phân đôi thường
9
Hình 1.2 Đối xứng phóng xạ và đối xứng toả tròn của
động vật nguyên sinh (theo Hickman)
Hình 1.3 Các kiểu bắt mồi khác nhau ở các nhóm động vật
nguyên sinh (theo Hickman)
4) Mỗi nhóm động vật nguyên sinh
có hình dạng và kiểu đối xứng
khác nhau: Trùng chân giả không
đối xứng, Trùng phóng xạ
(Radiolaria), Trùng mặt trời
(Heliozoa) có đối xứng phóng xạ
(còn gọi là đối xứng mặt trời) đặc
trưng cho các động vật sống trôi
nổi, Amip có vỏ sống trong nước
đối xứng tỏa tròn (hình 1.2). Một
số động vật nguyên sinh khác có
đối xứng hai bên như trùng phóng
xạ (giống Euphysetta) và trùng có
lỗ (giống Globotruncata), trùng roi
(giống Giardia), cơ thể chúng chỉ
có một mặt phẳng đối xứng duy
nhất chia con vật thành hai nửa
hoàn toàn giống nhau. Động vật
mất đối xứng như động vật
nguyên sinh có lông bơi (Ciliata).
5) Sự vận chuyển khác nhau
ở các nhóm: Trùng chân giả chưa
có cơ quan tử vận chuyển riêng
biệt thì vận chuyển bằng sự hình
thành chân giả, Trùng roi vận
chuyển bằng roi, bằng lông hay tơ
bơi, lội trong nước (Trùng lông
bơi).
6) Phần lớn động vật nguyên
sinh là dị dưỡng, trừ trùng roi có
khả năng tự dưỡng. Tiêu hoá của
động vật nguyên sinh tiến hành
trong tế bào nhờ các không bào
thấy ở các dạng sống tự do, đó là sự chia đôi cơ thể theo chiều ngang hay theo
chiều dọc (hình 1.5). Kết quả của quá trình sinh sản vô tính chia đôi cơ thể không
đến cùng đã dẫn tới sự hình thành tập đoàn động vật nguyên sinh.
Sinh sản hữu tính biểu hiện ở mức độ thấp là sự hình thành các giao tử giống
nhau hay khác nhau (trùng roi) hay có hiện tượng sinh sản hữu tính bằng cách tiếp
10
Hình 1.4 Cơ chế hình thành và hoạt động của không bào co bóp ở động vật nguyên sinh (theo Hickman)
A. - B. Sự hình thành không bào co bóp từ hệ thống các túi và ống dẫn. Màng tế bào sử dụng bơm prôtn để vận
chuyển H+ và HCO
3
-, nước khuyếc tán thụ động để duy trì một áp suất thẩm thấu. C. Khi không bào đầy, màng
của nó gắn với màng tế bào. D. Đẩy nước và H+ và HCO
3
- ra ngoài và chu kỳ được lặp lại.
Tế bào chất Không bào co bóp
Màng tế bào
Hình 1.5 Một số kiểu sinh sản vô tính ở Trùng chân giả và Trùng roi (theo Hickman)
A. Phân đôi của amip có vỏ Arcella; B. Phân đôi theo chiều ngang của amip Euglypha; C. Phân
đôi theo chiều dọc của Trypanosoma; D. Theo chiều dọc của Euglena
hợp (conjugation) ở trùng lông bơi. Hình thức xen kẽ giữa sinh sản vô tính và hữu
tính trong vòng đời có thể thấy ở trùng bào tử hay ở tập đoàn Volvox (hình 1.6).
II. Hệ thống học Động vật nguyên sinh
Hệ thống học động vật nguyên sinh gần đây có nhiều thay đổi do sự phát triển
của nhiều ngành khoa học (hình thái học, giải phẩu học, cổ sinh học, tế bào học...)
và đặc biệt là sinh học phân tử. Một xu hướng phát triển là tách riêng và nâng một
đơn vị phân loại như từ một ngành tách thành nhiều ngành, từ một lớp tách thành
nhiều lớp.... Chính sự thay đổi này đã làm cho hệ thống phân loại ngày càng mang
tính tự nhiên hơn.
Theo quan điểm hiện nay thì phân giới Động vật nguyên sinh (Protozoa) được
chia thành 4 nhóm lớn (liên ngành) và có 12 ngành.
A. Động vật nguyên sinh Có chân giả có 4 ngành: 1) Ngành Trùng chân giả
(Amoebozoa), 2) Ngành Trùng có lỗ (Foraminifera), 3) Ngành Trùng phóng xạ
(Radiozoa), 4) Ngành Trùng mặt trời (Heliozoa).
B. Động vật nguyên sinh Có roi bơi có 4 ngành: 1) Ngành Động vật cổ
(Archaezoa), 2) Ngành Trùng roi động vật (Euglenozoa), 3) Ngành Trùng roi giáp
(Dinozoa), 4) Ngành Trùng roi cổ áo (Choanozoa).
C. Động vật nguyên sinh Có bào tử có 3 ngành: 1) Ngành Trùng bào tử
(Sporozoa), 2) Ngành Trùng bào tử gai (Cnidosporozoa), 3) Ngành Trùng vi bào tử
(Microsporozoa).
D. Động vật nguyên sinh Có lông bơi có 1 ngành là Ngành Trùng lông bơi
(Ciliophora)
1. Ngành Trùng chân giả (Amoebozoa)
Ngày nay đã biết khoảng 10.000 loài đang sống và số lượng lớn loài hóa thạch
nhờ vào cơ thể có vỏ rắn. Trong số đó có 80% số loài sống ở biển, còn lại là sống
11
Hình 1.6 Sự sinh sản xen kẽ của tập đoàn trùng roi Volvox (theo
Hickman)
Sinh sản
hữu tính
Sinh sản
vô tính
Cá thể cái
ra ngoài
Cá thể cái non
Hợp tử
Trứng
Tinh trùng
trong nước ngọt, đất ẩm hay ký sinh. Ngành này chỉ có một lớp Trùng chân giả
(Sarcodina).
1.1 Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Trong số động vật thuộc ngành Trùng chân giả thì amip có cấu tạo đơn giản
nhất, có kích thước khá lớn và không có vỏ bao bọc nên dễ quan sát. Chúng có khả
năng hình thành chân giả (pseudopoda) để di chuyển và bắt mồi do vậy hình dạng
cơ thể không cố định (hình 1.7).
Có một số giả thiết hình thành chân giả, liên quan đến sự có mặt của 2 loại
protein là actin và myosin giữ vai trò quan trọng trong hoạt động cơ của động vật đa
bào và sự chuyển đổi qua lại giữa 2 trạng thái sol và gel của tế bào chất của amip.
Khởi đầu một tác nhân kích thích lên màng tế bào, gây hóa mỏng vùng ngoại chất
đó, do sức ép của ngoại chất xung quanh, nội chất sẽ dồn về đó tạo thành chân giả.
Khi chân giả đủ lớn thì con vật có thể di chuyển được một đoạn ngắn theo cách kéo
lê cơ thể trên giá thể. Khi tế bào chất chạy đến chóp chân giả thì chúng bị đẩy sang
một bên và chuyển sang trạng thái gel hoàn toàn, tiếp đến sẽ hình thành vách tế bào
ở bộ phận đó. Vị trí hình thành và hình dạng của chân giả thường không cố định trên
cơ thể và sai khác nhau ở các loài khác nhau (hình 1.8).
12
5
2
6
4
3
8
13 9
10
11
7
1
5
12
Hình 1.7 Cấu tạo cơ thể amip Acanthamoeba palostrinasis (theo Hickman)
A. Cơ thể đang hoạt động; B. Bào xác
1. Nội chất; 2. Không bào tiêu hoá; 3. Ty thể; 4. Ngoại chất; 5. Phần trong nhân; 6. Phần ngoài nhân; 7. Hạt mỡ;
8. Màng vỏ ngoài; 9. Màng vỏ trong; 10. màng nguyên sinh chất; 12. Dịch nhân; 13. Màng nhân
Hình 1.8 Một giả thiết về hình thành chân giả của trùng chân giả (theo Hickman)
A. Toàn bộ cơ thể; B. Bổ dọc một chân giả; 1. Lưới nội chất; 2. Protein actin; 3. Sợi actin; 4. Chân giả;
5. Phân tử lipit trên màng nguyên sinh chất; 6. Các actin cấu trúc; 7. Các protein ở trạng thái bình
thường; 8. Dòng nội chất
3
21
6
7
A
8
5
4
B
Thức ăn của amip là các vi khuẩn, sinh vật nhỏ bé (trùng roi, trùng cỏ...) và các
vụn bã hữu cơ mà chúng bắt gặp trên đường đi. Amip hình thành chân giả bao lấy
thức ăn sau đó đưa vào nội chất. Trong nội chất sẽ hình thành nên không bào tiêu
hóa. Các men tiêu hóa được tiết vào trong không bào tiêu hóa phân hủy thức ăn và
chất dinh dưỡng sẽ được hấp thụ vào trong nội chất, còn chất cặn bã sẽ chuyển ra
phía ngoài và thải ra bất kỳ chỗ nào trên bề mặt cơ thể. Người ta gọi quá trình thu
nhận và tiêu hóa thức ăn theo kiểu này là quá trình thực bào (phagocytosis).
Ngoài ra amip có thể lấy thức ăn lỏng bằng cách hút thức ăn qua các ống nhỏ,
sau đó dồn vào không bào tiêu hóa. Kiểu tiêu hóa này được gọi là tiêu hóa ẩm bào
(pinocytosis). Một số động vật nguyên sinh có vỏ bọc ngoài như amip có vỏ, trùng có
lỗ lấy thức ăn bằng cách thò chân giả ra ngoài vỏ. Tiêu hóa thực bào hay ẩm bào
đều thuộc kiểu tiêu hóa nội bào vì chúng xảy ra bên trong tế bào, đặc trưng cho động
vật nguyên sinh.
Trong tế bào chất còn có các không bào co bóp nhằm thực hiện quá trình thải
chất cặn bã, điều hòa áp suất thẩm thấu. Không bào co bóp có cấu tạo là một túi
chứa, có thể tích lũy nước và chất cặn bã. Khi đạt đến một kích thước nhất định
chúng sẽ di chuyển ra phía màng tế bào và vỡ ra, tống nước và chất thải ra ngoài.
Chỉ có các động vật nguyên sinh sống ở nước ngọt mới có khả năng hình thành
không bào co bóp vì trong môi trường nước ngọt, nồng độ các chất trong tế bào bao
giờ cũng lớn hơn so với môi trường ngoài và nước từ môi trường ngoài luôn xâm
nhập vào tế bào. Nước được dồn vào túi chứa của không bào co bóp và từng lúc
được tống ra ngoài, cân bằng lại áp suất cho tế bào. Khi nước xâm nhập từ ngoài
vào trong tế bào thì mang O2 vào cho tế bào còn nước tống ra mang theo chất thải
và CO2 ra khỏi cơ thể động vật nguyên sinh. Đối với amip, khoảng cách giữa 2 lần co
bóp của không bào co bóp là 1 - 5 phút tùy thuộc vào loài amip và tùy thuộc vào
nồng độ muối của môi trường. Động vật nguyên sinh sống ở biển và ký sinh trong cơ
thể vật chủ không có không bào co bóp.
Nhân của amip có cấu tạo điển hình của động vật có nhân chuẩn. Nhân giàu
dịch nhân, màng nhân có nhiều lỗ, giàu chất nhiễm sắc và hạch nhân. Số lượng
nhân thay đổi tùy loài.
Một số trùng chân giả có khả năng hình thành bộ xương ngoài làm nhiệm vụ
nâng đỡ cơ thể. Bộ xương là sản phẩm của tế bào chất, có nhiều hình dạng khác
nhau (hình sợi, hình ống, hình cầu, hình nấm, hình mặt trời...). Thành phần hóa học
của bộ xương có thể là kitinoit, SiO2, CaCO3, SrSO4... ngoài ra còn gắn thêm cát, vụn
đá, vỏ cây...
Có khả năng kết bào xác khi gặp điều kiện sống bất lợi. Đó là quá trình co cơ
thể lại, thải bớt nước và thức ăn ra ngoài, hình thành vỏ cứng có 2 lớp. Lớp vỏ này
có khả năng bảo vệ, khi có điều kiện thuận lợi thì chúng phân hủy vỏ và trở lại hoạt
động sống bình thường, nhờ có bào xác chúng có thể phát tán được do luồng gió
hay dòng nước (hình 1.7B).
1.2. Đặc điểm sinh sản
1.2.1 Sinh sản vô tính
Bằng cách chia đôi cơ thể ban đầu thành 2 cơ thể mới. Đối với trùng chân giả
có vỏ sẽ hình thành vỏ mới cho cá thể mới. Tốc độ sinh sản vô tính phụ thuộc vào
điều kiện môi trường mà chủ yếu là thức ăn: Nếu thức ăn đầy đủ, nhiệt độ thích hợp
thì loài Amoeba proteus cứ 1 - 2 ngày phân chia một lần. Ở một số trùng có lỗ (ví dụ
loài Elphidium crispa) có kiểu sinh sản vô tính hàng loạt hay còn gọi là kiểu sinh sản
13
vô tính liệt sinh: Nhân trong cơ thể phân chia thành nhiều nhân nhỏ, chất nguyên
sinh cũng phân thành nhiều phần tương ứng, sau đó hình thành từng cá thể riêng
biệt trong cá thể mẹ, sau đó giải phóng ra nhiều cá thể con.
1.2.2 Sinh sản hữu tính
Chỉ xảy ra ở một số ít loài, đó là sự kết hợp của hai tế bào sinh dục hay của 2
nhân sinh sản. Một số động vật nguyên sinh như loài amip Amoeba diploidea có kiểu
sinh sản này.
1.3. Phân loại và tầm quan trọng
Trùng chân giả có khoảng 10.000 loài, có 1 lớp, chia làm 3 bộ.
1.3.1 Bộ Amip trần (Amoebina)
Cơ thể không có bộ xương hay vỏ bọc, hình dạng cơ thể luôn thay đổi. Phần
lớn amip trần sống tự do trong nước ngọt và đất ẩm, chỉ có một số loài ký sinh trong
ruột người và động vật (ví dụ như Entamoeba hystolytica ký sinh ở người, gây bệnh
lỵ) (hình 1.8). Loài này
ăn hồng cầu theo kiểu thực bào và hình thành các vết lở loét trên thành ruột giống
như miệng núi lửa. Chúng tồn tại ở 2 dạng: Thể nhỏ (minuta) ít di động và thể lớn
(histolytica) rất hoạt động và ăn nhiều hồng cầu. Một số có thể theo máu vào gan,
gây áp xe gan. Bào xác hình tròn, có đường kính khoảng 7 - 10µm, có 4 nhân. Mỗi
ngày 1 người bệnh có thể thải ra 300 triệu bào xác, bào xác có thể sống trong phân
lỏng được 12 ngày, trong cơ thể ruồi, nhặng, gián... bào xác có thể sống tới 258 giờ,
còn trong nước chúng sống được khoảng 9 - 30 ngày, bào xác chịu được nhiệt độ từ
480C - 600C. Tỷ lệ nhiễm bệnh lỵ amip ở nước ta là xấp xỉ 7%. Bệnh có thể phát triển
thành dịch, đặc biệt là trong mùa lũ. Ngoài ra còn gặp loài E. coli, bào xác có 8 nhân
nhưng không gây bệnh.
1.3.2 Bộ Amip có vỏ (Testacea)
Chỉ gặp ở nước ngọt, là thành phần của sinh vật đáy. Sai khác chủ yếu với
amip trần là chúng có
thêm một lớp vỏ bọc, vừa có tác dụng bảo vệ, vừa có tác dụng nâng đỡ cơ thể. Các
giống thường gặp là Arcella, Difflugia, Centropyxis...
14
2. Ngành Trùng có lỗ (Foraminifera)
Là một nhóm động vật nguyên sinh chủ yếu sống ở biển (sống nổi hay sống
đáy), có khoảng 1.000 loài hiện sống và khoảng 30.000 loài hoá thạch. Trùng có lỗ
có 3 đặc điểm sau:
Vỏ có cấu tạo đặc biệt, một ngăn hay nhiều ngăn (có tới 100 ngăn, giữa các
ngăn có lỗ nhỏ thông với nhau), xếp thành dãy hay xếp xoắn ốc. Trùng có lỗ có lớp
vỏ hữu cơ có liên kết với các hạt cát, trên vỏ có nhiều lỗ nhờ đó mà chân giả thò ra
ngoài. Một số trùng có lỗ, vỏ của chúng có ngấm thêm các muối vô cơ như CaCO3,
SiO2, SrSO4... vì vậy vỏ chắc và nhẹ. Ở các loài trùng có lỗ sống nổi, vỏ của chúng
có những gai dài mọc ra xung quanh làm tăng diện tiếp xúc với nước, thích nghi với
lối sống nổi. Kích thước của vỏ rất khác nhau từ vài chục µm đến hàng trăm µm,
thậm chí tới vài cm (giống Cornuspiroides) hay tới 6cm (giống Nummulites).
Chân giả hình sợi rất dài, thường kết với nhau thành mạng lưới.
Có khả năng sinh sản vô tính và hữu tính. Trong sinh sản hữu tính có hình
thành giao tử có roi và trong vòng đời có xen kẽ thế hệ. Trùng có lỗ Discorbis
patelliformis có hiện tượng xen kẽ thế hệ. Thể hữu tính mở đầu cho thế hệ sinh sản
hữu tính bằng cách liệt sinh để hình thành nhiều giao tử giống nhau (isogamete), có
2 roi. Sau khi kết hợp để hình thành nên hợp tử (2n), cá thể này phát triển thành thể
vô tính (agamont) để mở đầu cho thế hệ sinh sản vô tính. Thể vô tính phân chia
nguyên nhiễm nhiều lần và giảm nhiễm một lần cuối để hình thành nên thể hữu tính
(gamont) có nhiễm sắc thể đơn bội (n). Như vậy ở loài này có 2 thế hệ mẹ và con
khác nhau về cách sinh sản, được lặp đi lặp lại đều đặn và được gọi là hiện tượng
xen kẽ thế hệ (metagenez).
Trùng có lỗ có ý nghĩa thực tiễn khá lớn. Phần lớn chúng sống ở biển, khi chết
đi vỏ của
chúng lắng xuống đáy biển (1 gam cát có thể có tới 50.000 cá thể). Khi có các cuộc
tạo sơn, chúng tham gia tạo nên các nền đất đá trên lục địa với diện tích rất rộng.
Các lớp đá vôi và sa thạch xanh là vỏ của trùng lỗ (ví dụ đá vôi tạo nên cao nguyên
Sahara hoàn toàn bằng vỏ của giống Nummulites và vùng cao nguyên này xưa kia là
đáy biển). Trùng có lỗ là những động vật xuất hiện rất sớm (từ kỷ Cambri và Silua).
Mỗi thời kỳ địa chất nhất định thường được đặc trưng bởi một thành phần trùng lỗ
nhất định, do vậy dựa vào hóa thạch của chúng để chúng ta xác định tuổi địa tầng.
Ví dụ giống Nummulites đặc trưng cho kỷ Đệ tam; họ Fusulinidae chỉ thị cho các lớp
đất thuộc kỷ Thạch thán và Pecmi. Cũng căn cứ vào tính chất tương tự, người ta
còn dùng chúng để thăm dò những nơi có dầu mỏ vì lớp đất chứa dầu mỏ thường
tương ứng với một số loài trùng lỗ xác định (hình 1.9).
Ở Việt Nam khá phong phú về thành phần loài trùng có lỗ. Đến nay đã xác định
được 290 loài trùng có lỗ. Vịnh Bắc Bộ có họ phổ biến là Textalriadae, Miliolidae,
Lagenidae... và các loài phổ biến sống nổi ở vùng cửa sông là Globerina bulloides,
15
Hình 1.9 Một số Trùng có lỗ
(theo Baly & Calvez)
A. Vỏ của Rheophax; B. Globigerina; C. Vỏ
của Nontion; D. Cắt dọc vỏ trùng có lỗ
G. eggeri, Hastigerrina siphonifera..., còn các loài sống đáy phân bố tập trung theo 4
vùng (cửa, giữa, Tây và Bắc của vịnh) gồm các loài: Miliammina agglutinans,
Cribrobigeneria textularoides, Pseudorotalia indopacifera...
3. Ngành Trùng phóng xạ (Radiozoa)
Sống ở vùng biển có độ sâu từ 0 -5.000m, phong phú ở các vùng nông của
biển ấm, một số lớn các loài đã hóa thạch.
3.1 Cấu tạo cơ thể
Trùng phóng xạ có cơ thể hình cầu, hình khối, kích thước dao động từ 40 - 50µ
m đến 1mm. Đặc trưng về cấu tạo là có nang trung tâm: Đó là một màng được phân
hóa từ một phần của tế bào chất, chia tế bào chất thành 2 phần là phần trong nang
và phần ngoài nang (hai phần này không tương ứng với nội chất và ngoại chất).
Thành nang trung tâm có nhiều lỗ thủng nhỏ, qua đó nguyên sinh chất trong nang
thông với ngoài nang. Trong nguyên sinh chất của trùng phóng xạ còn gặp một số
lớn các tảo đơn bào (thuộc bộ Dinoflagellata) sống cộng sinh. Chỉ gặp ở các trùng
Phóng xạ sống ở vùng biển nông, nơi có ánh sáng chiếu tới.
Chân giả của trùng phóng xạ gồm nhiều sợi, xuyên qua thành nang trung tâm
tỏa ra ngoài. Đó là phần được hình thành từ các phần tế bào chất quánh hơn nằm
phía ngoài. Chân giả có thể liên kết và hình thành các nhánh để tăng hiệu quả bắt
mồi.
Phần lớn trùng phóng xạ có vỏ bọc đều đặn bao lấy tế bào chất hay hình thành
nhiều gai xương tỏa ra xung quanh. Vỏ này có cấu tạo bằng SiO2 hay SrSO4 vừa làm
cho vỏ bền, chắc, vừa làm cho vỏ nhẹ, giúp cho con vật nổi trong nước. Do vỏ có
hình dạng rất khác nhau và có thể liên kết với nhau, tạo nên những hình thù rất kỳ dị
và rất đẹp. Tuy vậy vẫn có một số loài trùng phóng xạ không có bộ xương (trần),
sống tập đoàn.
Nhiều loài trùng phóng xạ sinh sản vô tính bằng cách chia đôi: Bộ xương của
cá thể mẹ hoặc chia đôi hay ở lại trên một cá thể, cá thể kia sẽ hình thành nên vỏ
mới. Khi phân đôi, nhân trong nang trung tâm có số lượng nhiễm sắc thể rất lớn do
đặc điểm đa bội của nhâ