Giáo trình giới thiệu các tác phẩm kinh điển triết học

Vào những năm 1845-1846, Tây Âu đang tiến nhanh đến một cuộc cách mạng mới. Phong trào công nhân phát triển mạnh và rộng rãi khắp châu Âu nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Lúc này C.Mác và F.Enghen đã đi sâu vào hoạt động chính trị, hai ông nhận thấy cần phải xây dựng một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học để phân ranh giới rõ ràng giữa hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, vạch con đường đi đến chủ nghĩa cộng sản một cách hiện thực mà giai cấp vô sản đang đi vào một cách tự phát. Theo F.Enghen, lúc này (mùa xuân 1845) quan niệm duy vật ở C.Mác đã hình thành đầy đủ. Hai ông nhất trí lấy quan niệm đó để phê phán toàn bộ nền móng triết học cổ điển Đức sau Heghen. Phê phán “Hệ tư tưởng Đức” là mục đích của tác phẩm: ”Muốn đánh giá đúng cái bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn hiểu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hêghen trẻ đó, và đặc biệt muốn hiểu rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện thực của các vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước Đức” . “Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của C.Mác và F.Enghen vào cuối giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác: Lúc mà hai ông đã khắc phục chủ nghĩa duy tâm trong lĩnh vực xã hội và xây dựng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, đặt nền móng triết học cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm này viết từ tháng 08/1845 đến tháng 05/1846. Nó gồm hai tập, nhưng nội dung quan trọng nhất của tác phẩm là ở chương 1 của tập I. - Trong tác phẩm, hai ông trình bày quan niệm duy vật lịch sử của mình và đấu tranh với triết học duy tâm về lịch sử của Ludwig Feuerbach, Bauer, Xtiêc-nơ và những nhà Xã hội chủ nghĩa “chân chính”. - Nội dung của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” rất phong phú. Trong đó, C.Mác và F.Enghen đã trình bày một cách rõ ràng, hoàn chỉnh những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử. “Hệ tư tưởng Đức” thực sự là tác phẩm lớn nhất của thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác (1842 - 1848). - Thời C.Mác, tác phẩm này không được xuất bản vì bị kiểm duyệt nghiêm ngặt. Nó được xuất bản lần đầu tiên tại Matxcơva năm 1932. Tại Việt Nam nó đã được tái bản bốn lần: Lần 1 có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Phần thứ nhất: Phơ bách. Lần thứ hai và ba có tựa đề “Ludwig Feuerbach - Sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy tâm chủ nghĩa” (Chương 1 Hệ tư tưởng Đức). Lần thứ tư, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới, tác phẩm được xuất bản vào tháng 10 / 1986, do Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội ấn hành - có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Chương 1 Ludwig Feuerbach sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm”, đúng như trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1980 - Tập 1 - Trang 259 đến 369. - Tất cả các lần xuất bản thành tác phẩm riêng bằng tiếng Việt và cả trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Tập 1 nói trên, đều chỉ là Chương 1 trong tập I của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và F.Enghen. II. Bố cục của tác phẩm (Tái bản 10 / 1986). - I Phơ bách Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Trang 7 -9 (261 - 263). - Phơ bách A. Hệ tư tưởng nói chung, hệ tư tưởng Đức nói riêng. Trang 10 -13 (264 - 267). - [1]. Hệ tư tưởng Đức nói chung, triết học Đức nói riêng. Trang 13 - 26 (267 - 279). - [2]. Trang 26 - 64 (279 - 314). - [3]. Trang 64 - 70 (314 - 321). - [4]. Trang 71 - 114 (321 - 362). - Quan hệ của nhà nước và pháp quyền với sở hữu. Trang 114 - 120 (363 - 369).

doc82 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2132 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình giới thiệu các tác phẩm kinh điển triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC HUẾ TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA ------------------------------------------- HOÀNG NGỌC VĨNH GIÁO TRÌNH GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC Nhà xuất bản Đà Nẵng ĐẠI HỌC HUẾ TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA THS. GVC HOÀNG NGỌC VĨNH GIÁO TRÌNH GIỚI THỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG -2005 GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC THS.GVC HOÀNG NGỌC VĨNH Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc: VÕ VĂN ĐÁNG Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG Biên tập: NGUYỄN KIM HUY Bìa và trình bày: TIẾN LINH In 1.000 cuốn, khổ 16x24 cm tại Công ty cổ phần in Thừa Thiên Huế – 57 Bà Triệu-Huế. Theo TNKH số 135/1834/XB – QLXB Cục xuất bản cấp ngày 17 tháng 12 năm 2004. Giấy trích ngang XB số: 174-XB, của NXB Đà Nẵng cấp ngày 23/3/2005. In xong nộp lưu chiểu tháng 5 năm 2005. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU -***- Trong khi chờ đợi giáo trình có tầm cỡ quốc gia, chúng tôi biên soạn cuốn sách “Giới thiệu các tác phẩm kinh điển triết học” nhằm phục vụ cho việc học tập của sinh viên Trung tâm Đào tạo Từ xa Đại học Huế cùng những bạn đọc quan tâm đến nội dung cuốn sách. Nội dung cuốn sách được hoàn thành dựa trên nội dung cuốn “Bài giảng các tác phẩm kinh điển triết học” mà chúng tôi đã biên soạn phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên Triết học Đại học Khoa học Huế theo sự phân công của Bộ môn Triết học - Khoa Mác-Lênin - Trường Đại học Khoa học Huế tháng 02 năm 2000 và có sử dụng một số tư liệu của cuốn “Giới thiệu và hướng dẫn nghiên cứu các tác phẩm và chuyên đề Triết học Mác - Lênin - Bộ môn Triết đại học kinh tế quốc dân 1991”. Mặc dù đã có nhiều cố gắng biên soạn theo quyết định số 3244/ GD - ĐT ngày 12/ 09/ 1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, song cuốn sách cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, đọc giả xa gần để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! Huế, tháng 10 năm 2002 Th.s Hoàng Ngọc Vĩnh GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” CỦA C.MÁC VÀ F.ENGHEN I. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của tác phẩm. Vào những năm 1845-1846, Tây Âu đang tiến nhanh đến một cuộc cách mạng mới. Phong trào công nhân phát triển mạnh và rộng rãi khắp châu Âu nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Lúc này C.Mác và F.Enghen đã đi sâu vào hoạt động chính trị, hai ông nhận thấy cần phải xây dựng một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học để phân ranh giới rõ ràng giữa hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, vạch con đường đi đến chủ nghĩa cộng sản một cách hiện thực mà giai cấp vô sản đang đi vào một cách tự phát. Theo F.Enghen, lúc này (mùa xuân 1845) quan niệm duy vật ở C.Mác đã hình thành đầy đủ. Hai ông nhất trí lấy quan niệm đó để phê phán toàn bộ nền móng triết học cổ điển Đức sau Heghen. Phê phán “Hệ tư tưởng Đức” là mục đích của tác phẩm: ”Muốn đánh giá đúng cái bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn hiểu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hêghen trẻ đó, và đặc biệt muốn hiểu rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện thực của các vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước Đức” C.Mác - F.Enghen -Hệ tư tưởng Đức - Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1987 - Trang 9. . “Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của C.Mác và F.Enghen vào cuối giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác: Lúc mà hai ông đã khắc phục chủ nghĩa duy tâm trong lĩnh vực xã hội và xây dựng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, đặt nền móng triết học cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm này viết từ tháng 08/1845 đến tháng 05/1846. Nó gồm hai tập, nhưng nội dung quan trọng nhất của tác phẩm là ở chương 1 của tập I. - Trong tác phẩm, hai ông trình bày quan niệm duy vật lịch sử của mình và đấu tranh với triết học duy tâm về lịch sử của Ludwig Feuerbach, Bauer, Xtiêc-nơ và những nhà Xã hội chủ nghĩa “chân chính”. - Nội dung của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” rất phong phú. Trong đó, C.Mác và F.Enghen đã trình bày một cách rõ ràng, hoàn chỉnh những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử. “Hệ tư tưởng Đức” thực sự là tác phẩm lớn nhất của thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác (1842 - 1848). - Thời C.Mác, tác phẩm này không được xuất bản vì bị kiểm duyệt nghiêm ngặt. Nó được xuất bản lần đầu tiên tại Matxcơva năm 1932. Tại Việt Nam nó đã được tái bản bốn lần: Lần 1 có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Phần thứ nhất: Phơ bách. Lần thứ hai và ba có tựa đề “Ludwig Feuerbach - Sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy tâm chủ nghĩa” (Chương 1 Hệ tư tưởng Đức). Lần thứ tư, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới, tác phẩm được xuất bản vào tháng 10 / 1986, do Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội ấn hành - có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Chương 1 Ludwig Feuerbach sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm”, đúng như trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1980 - Tập 1 - Trang 259 đến 369. - Tất cả các lần xuất bản thành tác phẩm riêng bằng tiếng Việt và cả trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Tập 1 nói trên, đều chỉ là Chương 1 trong tập I của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và F.Enghen. II. Bố cục của tác phẩm (Tái bản 10 / 1986). - I Phơ bách Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Trang 7 -9 (261 - 263). - Phơ bách A. Hệ tư tưởng nói chung, hệ tư tưởng Đức nói riêng. Trang 10 -13 (264 - 267). - [1]. Hệ tư tưởng Đức nói chung, triết học Đức nói riêng. Trang 13 - 26 (267 - 279). - [2]. Trang 26 - 64 (279 - 314). - [3]. Trang 64 - 70 (314 - 321). - [4]. Trang 71 - 114 (321 - 362). - Quan hệ của nhà nước và pháp quyền với sở hữu. Trang 114 - 120 (363 - 369). III. NHỮNG NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM. Tác phẩm có hai nội dung chính: Phê phán triết học Đức sau Hêghen và Hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và F.Enghen. Phê phán triết học Đức sau Heghen. - Trong tác phẩm hai ông đã chỉ rõ: Phái Heghen trẻ om sòm tự xưng là cách mạng, nhưng trên thực tế họ không vượt qua chủ nghĩa duy tâm của Heghen. Họ “tin rằng, tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống trị trong thế giới hiện tại”. Họ phê phán ý thức hiện nay - cái mà họ cho là sai lầm - đòi thay thế nó bằng ý thức phê phán - những quan niệm của chính họ, nhưng trên thực tế họ là những kẻ bảo thủ, chỉ cách mạng bằng lời lẽ mà thôi: “Mặc dù họ đã dùng những lời lẽ khoa trương dường như làm đảo lộn thế giới, các nhà tư tưởng của phái Hêghen trẻ vẫn là những kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ đã tìm được những từ ngữ chính xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố rằng họ chỉ đấu tranh chống lại “những câu nói”... Không một người nào trong những nhà triết học đó có ý nghĩ tự hỏi xem mối liên hệ giữa triết học Đức với hiện thực Đức là như thế nào, mối liên hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn cảnh vật chất của chính bản thân họ là như thế nào” Sách đã dẫn - Trang 13. . Trong lĩnh vực lịch sử, hai ông chỉ rõ phái Heghen trẻ cũng như chủ nghĩa duy tâm không biết đến cơ sở hiện thực của lịch sử. Theo hai ông, họ chỉ coi mỗi thời đại lịch sử là thể hiện của một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Chính thế, khi phân tích một thời đại lịch sử nào đó ở họ suy cho cùng chỉ là sự “tán đồng ảo tưởng của thời đại đó”. Hai ông hoàn thành việc phê phán phái Heghen trẻ bằng cách phân tích và chỉ ra nguồn gốc xã hội của họ. Theo hai ông, họ thuộc giai cấp thị dân Đức, một giai cấp trung gian của một nước Đức chưa từng thực hiện một cuộc cách mạng tư sản triệt để. “Triết học Đức là hậu quả của những quan hệ tiểu tư sản”. Tính nghèo nàn, bất lực của tư tưởng Đức phản ánh chính tính nghèo nàn, thảm hại của hiện thực Đức. Một nước Đức phong kiến bảo thủ tồn tại bên cạnh một nước Pháp tư sản triệt để của một xã hội phương Tây sục sôi cách mạng tư sản. - Như nhan đề của chương 1 đã chỉ rõ, hai ông dành phần quan trọng để phê phán Ludwig Feuerbach, vạch rõ tính duy tâm về xã hội của triết học ấy. Hai ông viết “Feuerbach không bao giờ hiểu được rằng thế giới cảm giác được là tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành thế giới ấy, vì vậy ông không nhìn thấy chẳng hạn một đám người đói, còi cọc, kiệt quệ vì lao động và ho lao, chứ không phải những người khoẻ mạnh thì ông buộc phải lẩn trốn vào trong “quan niệm cao hơn” và trong “sự bù trừ” lý tưởng “trong loài” nghĩa là ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, đúng ở chỗ mà người duy vật cộng sản chủ nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của một sự cải tạo cả nền công nghiệp lẫn cơ cấu xã hội. Khi Ludwig Feuerbach là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử, còn khi ông tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở Feuerbach, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau, điều này đã được nói rõ ở bên trên” Sđd - Trang 33. . + Hai ông chỉ rõ, Ludwig Feuerbach duy tâm ở chỗ ông ta thừa nhận con người là đối tượng cảm tính, một thực thể có cảm giác và tình cảm (ở điểm này ông hơn các nhà triết học duy vật máy móc), nhưng ông ta không thấy giữa người với người một mối quan hệ nào khác ngoài tình bạn, tình yêu. Thậm chí ông ta coi tình bạn, tình yêu là động lực quan trọng nhất của lịch sử. Cái nơi cần giữ lập trường duy vật nhất thì ông ta lại duy tâm sa lầy trong cái trừu tượng về con người và không bao giờ đi tới được con người hiện thực, con người xã hội: “Đành rằng so với những nhà duy vật thuần tuý thì Feuerbach có ưu điểm lớn là ông thấy rằng con người cũng là một “đối tượng của cảm giác”; nhưng hãy gạt bỏ việc ông coi con người chỉ là “đối tượng của cảm giác” chứ không phải là “hoạt động cảm giác được”, vì cả ở đây nữa, ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt nhất định của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại, thì Feuerbach cũng không bao giờ đi tới được những con người đang tồn tại và hành động thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại một sự trừu tượng: “Con người” và có thể nhận ra con người ”hiện thực, cá thể, bằng xương bằng thịt” chỉ trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những “quan hệ con người”, “giữa người với người” nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa là tình yêu và tình bạn được lý tưởng hoá. Ông không phê phán những điều kiện hiện tại” Sđd - Trang 32-33. . + Hai ông cũng chỉ rõ, thái độ tĩnh quan của Ludwig Feuerbach đã dẫn ông ta đến tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử xã hội, coi con người là sản phẩm của tự nhiên, phục tùng những quy luật của tự nhiên, những quy luật sinh học. Ông ta chỉ thấy cái tự nhiên mà không thấy cái xã hội ở con người. Ông ta đã tách rời tự nhiên với xã hội, không thấy mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với xã hội. Thật ra, con người không chỉ là đối tượng cảm tính mà còn hoạt động cảm tính. Dĩ nhiên là từ tự nhiên tách ra con người, nhưng con người lại cải tạo tự nhiên. “Bao giờ con người cũng đứng trước một giới tự nhiên lịch sử và một lịch sử tự nhiên”. Tự nhiên có vị trí ưu tiên của nó, song không thể xem nó là cái chủ yếu, bất biến, không thay đổi. Chính cái xã hội mới là cái cơ sở, cái tự nhiên phát triển, thành cái xã hội, trở thành cái xã hội, không biến mất mà chỉ thay đổi hình thức của mình. - Quan điểm tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử chỉ thừa nhận quy luật tự nhiên, quy luật sinh học tác động trong xã hội. Quan niệm ấy luôn luôn gặp các mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa tính quy luật khách quan và hoạt động có ý thức của con người; hoặc quy luật tự nhiên quyết định lịch sử hay ý thức con người quyết định lịch sử; hoặc hoàn cảnh quyết định con người hay con người quyết định hoàn cảnh của họ. Về điểm này, hai ông chỉ ra Ludwig Feuerbach duy tâm khi ông ta cho rằng, bản thân con người sáng tạo ra lịch sử của mình mà chỉ đóng khung con người trong phạm vi thể chất, tình cảm - tức ông ta chỉ thấy cái chủ quan mà không thấy cái khách quan, không thấy cái đặc thù của cái khách quan trong lĩnh vực xã hội, không thấy cái đặc thù của quy luật xã hội (Triết học duy vật biện chứng coi con người sáng tạo ra hoàn cảnh lịch sử trong chừng mực nào, thì hoàn cảnh lịch sử cũng tạo ra con người trong chừng mực ấy). Ở đây, Ludwig Feuerbach đã thụt lùi hơn so với Heghen. Heghen cho rằng, kết quả hoạt động có mục đích của con người không phụ thuộc vào bản thân hoạt động ấy, tức kết quả ấy là cái khách quan. Tuy nhiên, Heghen đã giải thích tính khách quan ấy một cách tư biện (Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và bản chất con người là: Con người là một chỉnh thể thống nhất của ba hệ thống các quy luật: Hệ thống các quy luật sinh học tạo nên phương diện sinh học ở con người; Ý thức con người hình thành và hoạt động trên cơ sở nền tảng sinh học của con người; Hệ thống các quy luật xã hội tạo nên cái xã hội của con người, nó quy định mối quan hệ giữa người với người. Trong đời sống hiện thực ba quy luật đó không tách rời nhau mà đan quyện hoà vào nhau, tạo nên bản chất con người với tư cách là cái đồng nhất của cái tự nhiên sinh học và cái xã hội. Con người trước hết là một động vật bậc cao. Nhưng con vật chỉ tái sản xuất ra chính mình, còn con người thì còn tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Nhu cầu tự nhiên của con người được biểu hiện ở các mặt: nhu cầu ăn, ở, mặc...; nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm và nhu cầu hiểu biết. Để đáp ứng những nhu cầu đó con người cần phải lao động. Trong lao động con người quan hệ với nhau, hình thành nên những quan hệ khác trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Chính thế C.Mác khẳng định “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Bản chất con người không là cái bẩm sinh cũng không là cái chỉ sinh ra một lần là xong, mà nó là một quá trình được trải qua hoạt động thực tiễn. Trong quá trình đó con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh vừa cải biến hoàn cảnh. Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của mình.). + Hai ông chỉ rõ “toàn bộ suy diễn của Ludwig Feuerbach về quan hệ giữa người với người chỉ nhằm chứng minh người ta cần có nhau và bao giờ cũng cần có nhau. Cũng như những nhà duy lý khác, Ludwig Feuerbach không phải là một nhà cách mạng, mà là một nhà bảo thủ. Lý luận của Ludwig Feuerbach chỉ là sự ca tụng tuyệt diệu cái đang tồn tại. Ông ta viết “Bản chất của tôi như thế nào thì tồn tại của tôi như thế ấy”. Cái đang tồn tại mà Ludwig Feuerbach ca ngợi chính là trật tự tư sản. Là người có tấm lòng nhân đạo, Ludwig Feuerbach không thể thờ ơ với cảnh khổ của người lao động. Nhưng là nhà dân chủ tư sản ông ta không thể nhìn thấy được nguyên nhân của tình cảnh ấy và lối thoát hợp quy luật khỏi tình cảnh đó. Ông ta không có ý thức bênh vực trật tự dân chủ tư sản, mà chính do hạn chế bản chất giai cấp của tư tưởng của ông ta tạo ra. Ludwig Feuerbach không phủ định mà thừa nhận sự tồn tại của cáí đang tồn tại. Mà cái đang tồn tại không là cái gì khác ngoài hơn là trật tự dân chủ tư sản. - Như vậy, hai ông đã tiến hành hai bước làm cơ sở để xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử của mình là: Thứ nhất là phê phán chủ nghĩa duy tâm về lịch sử của các nhà triết học duy tâm như Heghen và phái Heghen trẻ. Thứ hai là phê phán chủ nghĩa duy tâm về lịch sử của các nhà triết học duy vật cũ mà đỉnh cao là Ludwig Feuerbach. Đây là điểm mới trong xây dựng chủ nghĩa duy vật về lịch sử của Mác và Ăngghen. 2. Hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và F.Enghen trong tác phẩm. Quan niệm duy vật lịch sử của C.Mac và F.Enghen có hai nội dung chính là Tiền đề và bản chất của quan niệm duy vật lịch sử; Quan niệm duy vật về lịch sử. Tiền đề và bản chất của quan niệm duy vật lịch sử của C.Mác và F. Enghen. (Có năm tiền đề) Theo C.Mác và F.Enghen, tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con người “người ta phải có khả năng sống để rồi mới có khả năng làm ra lịch sử”. Con người muốn tồn tại ít nhất phải ăn, ở và mặc. Muốn vậy con người phải sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Trong sản xuất vật chất thì sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt là tiền đề cơ bản của mọi lịch sử, nó là sự thực lịch sử đầu tiên, là quan hệ lịch sử đầu tiên. Hai ông viết “có thể phân biệt con người với loài vật bằng ý thức, tôn giáo, nói chung bằng cái gì cũng được. Còn chính con người thì bắt đầu tự phân biệt với loài vật khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình... Khi sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình con người gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của bản thân mình”. “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và đó là một hành vi lịch sử, một điều cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ chỉ nhằm để duy trì đời sống con người” S đ d Trang 34. . Như vậy tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử suy cho cùng là việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. Hai ông chỉ ra quan hệ lịch sử thứ hai là sự thoả mãn nhu cầu đầu tiên đưa tới những nhu cầu mới. Và sự sản sinh ra những nhu cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu thì phải sản xuất, nhưng chính sản xuất lại tạo ra những nhu cầu mới. Đến lượt nó, những nhu cầu mới lại trở thành nguyên nhân của sự phát triển sản xuất. “Bản thân nhu cầu đầu tiên được thoả mãn - khi đã có được hành động được thoả mãn ấy và công cụ đạt được để thoả mãn nhu cầu ấy - đưa tới những nhu cầu mới”, chính là tiền đề quan hệ lịch sử thứ hai, trong xây dựng quan niệm duy vật lịch sử của hai ông. Quan hệ lịch sử thứ ba là trong tái sản xuất ra đời sống vật chất của chính bản thân mình, thì con người cũng tái sản xuất ra con người thông qua quan hệ gia đình. Tức là, trong khi tái sản xuất ra đời sống của chính mình, thì con người cũng sản xuất ra những con người khác, con người luôn sinh sôi nảy nở. Khi những nhu cầu đã tăng lên sinh ra những nhu cầu mới thì quan hệ gia đình cũng là một quan hệ phụ thuộc. Gia đình lúc đầu là quan hệ xã hội duy nhất, về sau trở thành một quan hệ phụ thuộc khi mà những nhu cầu đã tăng lên đẻ ra những quan hệ xã hội mới và dân số đã tăng lên đẻ ra những nhu cầu mới. Ba mặt đó của hoạt động xã hội là ba mặt hay ba yếu tố tồn tại đồng thời với nhau ngay từ buổi đầu của lịch sử, từ khi con người đầu tiên xuất hiện, và chúng còn biểu hiện ra trong lịch sử. Thứ tư là sự sản xuất ra bản thân đời sống (vật chất) là một quan hệ hai mặt: Một mặt là quan hệ tự nhiên, một mặt là quan hệ xã hội. Quan hệ tự nhiên với ý nghĩa là hoạt động sản xuất để tái sản xuất ra đời sống vật chất. Quan hệ xã hội với ý nghĩa là hoạt động kết hợp của nhiều cá nhân bất kể trong điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì. Một phương thức sản xuất nhất định hay một giai đoạn công nghiệp nhất định bao giờ cũng thống nhất với một phương thức hoạt động kết hợp nhất định, một giai đoạn xã hội nhất định. Tức trong sản xuất ra đời sống, hai mặt quan hệ này là cái thống nhất với nhau trong một phương thức sản xuất. Nói cách khác, tổng hợp những sức sản xuất mà con người đã đạt được quyết định trạng thái xã hội. Quan hệ giữa sức sản xuất (hay giai đoạn công nghiệp) với giai đoạn xã hội, trạng thái xã hội là quan hệ lịch sử thứ tư (phương thức sản xuất). “Người ta phải luôn nghiên cứu và viết lịch sử loài người gắn liền với lịch sử của công nghiệp và trao đổi... Ngay từ đầu đã có một hệ thống những mối liên hệ vật chất giữa người với người, một hệ thống quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu đời như bản thân loài người” S đ d Trang 36. . Sau khi xem xét bốn nhân tố, bốn