Phân tích tài chính doanh nghiệp được quan niệm như là một tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá được thực trạng tình hình tài chính hiện tại và quá khứ của Doanh nghiệp, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những đối tác khác nhau để họ có nhưng quyết định phục vụ cho những mục tiêu và lợi ích khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các dữ liệu tài chính nữa mà đã có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán, do vậy số đối tác quan tâm, sử dụng các báo cáo tài chính và thông tin từ kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp cũng ngày càng mở rộng và tăng lên. Ngoài đối tượng quan trọng là chủ doanh nghiệp, họ bao gồm.
111 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1724 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Phân tích Tài chính doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học kinh doanh và công nghệ hà nội
Khoa Kế toán
-----------------------------
Giáo trình
Phân tích
Tài chính doanh nghiệp
Dành cho SV các khóa học 3 ĐVHT
Hà Nội , 2011
Mục lục
Phần thứ nhất
Trang
Chương 1:Những vấn đề chung của phân tích tài chính doanh nghiệp
3
1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp.
3
1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp.
5
1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp.
6
1.4.Tổ chức công tác phân tích các loại phân tích
15
Chương 2:phân tích kết quả hoạt động kinh doanh
17
2.1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
19
2.2. Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến nó
22
2.3. Phân tích lợi nhuận bán hàng
62
Chương 3:phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
70
3.1. Phân tích đánh giá thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu chủ yếu của bảng cân đối kế toán
71
3.2. Phân tích tình hình tổ chức huy động vốn của doanh nghiệp
102
3.3. Phân tích đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp
104
3.4. Đắc điểm phân tích, đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp cổ phần
111
Phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 1
Những vấn đề chung của
phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp được quan niệm như là một tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá được thực trạng tình hình tài chính hiện tại và quá khứ của Doanh nghiệp, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những đối tác khác nhau để họ có nhưng quyết định phục vụ cho những mục tiêu và lợi ích khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các dữ liệu tài chính nữa mà đã có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán, do vậy số đối tác quan tâm, sử dụng các báo cáo tài chính và thông tin từ kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp cũng ngày càng mở rộng và tăng lên. Ngoài đối tượng quan trọng là chủ doanh nghiệp, họ bao gồm.
- Các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế;
- Các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những người mua tín phiếu, các doanh nghiệp khác, các công ty mẹ v.v...;
- Các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai;
- Những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương;
- Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp v.v...
* Phân tích tài chính đối với các chủ doanh nghiệp.
Là chủ doanh nghiệp, hơn ai hết họ là người rất quan tâm đến những thông tin được cung cấp thông qua kết quả của phân tích tài chính doanh nghiệp (được gọi là phân tích tài chính nội bộ), như kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh, kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính doanh nghiệp v.v... Những thông tin nói trên sẽ là cơ sở để các chủ doanh nghiệp lựa chọn, cân nhắc để đưa ra các quyết định đúng đắn về quản lý trong tương lai, như quyết định về đầu tư, về tài trợ, về phân bổ vốn và sử dụng vốn, về giải quyết tình hình công nợ, về phân chia và sử dụng lợi nhuận, điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, liên doanh liên kết v.v...
* Phân tích tài chính đối với các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế:
Theo chế độ tài chính hiện hành, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp liên doanh, cổ phần có vốn của nhà nước đều quản lý và sử dụng một lượng tài sản và tiền vốn nhất định thuộc sở hữu nhà nước, do đó các cơ quan chức năng của nhà nước, như cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản đều quan tâm đến những thông tin về tình hình phân bổ và sử dụng vốn, tình hình đầu tư, khả năng tạo vốn, khả năng sinh lời, tình hình bảo toàn vốn v.v...; Với cơ quan thuế, vấn đề quan tâm với họ còn rộng hơn, cụ thể như kết quả hoạt động kinh doanh, việc thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước, như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, thuế vốn, thuế đất, thuế tài nguyên và các khoản phải nộp khác...
* Phân tích tài chính đối với các nhà cho vay, các chủ nợ của doanh nghiệp, các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai:
Hiện nay, vốn vay và nợ phải trả chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp. Do vậy các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những người mua tín phiếu, trái phiếu, các nhà bán chịu cho doanh nghiệp đều rất quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, khả năng trả nợ vay, hiệu quả sử dụng vốn, thu nhập của cổ phiếu, tỉ suất lợi nhuận trên vốn cổ đông, tỉ lệ trả lãi cổ phần, tỉ giá thị trường trên thu nhập của mỗi cổ phiếuv.v...
* Phân tích tài chính doanh nghiệp đối với những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương: Là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, do đó quyền lợi của họ gắn liền và tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, tình hình đầu tư, khả năng thanh toán (đặc biệt là thanh toán nhanh) v.v... Đối với các doanh nghiệp cổ phần, người hưởng lương cũng quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn cổ đông cũng giống với sự quan tâm của cổ đông của doanh nghiệp.
* Phân tích tài chính đối với các đối thủ cạnh tranh:
Hoạt động trong điều kiện của kinh tế thị trường, đặc biệt trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt. Trên cùng một thị trường, nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh mặt hàng (sản phẩm) giống nhau, ví dụ xe máy, ôtô, bia, đồ dùng gia dụng v.v..., do đó các đối thủ cạnh tranh rất muốn biết những thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khác, như kết quả sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình hình đầu tư, tình hình và khả năng tạo vốn thông qua phát hành tín phiếu, trái phiếuv.v...
Từ những vấn đề phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận rằng, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến các báo cáo tài chính và những thông tin được rút ra từ phân tích tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin có được qua phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để họ sử dụng trong việc đưa ra các quyết định có liên quan tới những mục đích khác nhau, như:
- Quyết định có liên quan đến yêu cầu quản lý doanh nghiệp;
- Quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay, bán chịu;
- Quyết định mua hay bán tín phiếu của doanh nghiệp;
- Quyết định chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp (sát nhập, cổ phần, liên doanh, giải thể v.v...) v.v...
Chính vì những ý nghĩa tác dụng nói trên nó đã khẳng định sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Để thực hiện được mục đích của việc phân tích tài chính doanh nghiệp, nội dung chủ yếu của nó bao gồm:
- Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh;
- Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp;
1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp.
Để thực hiện được các mục đích, phân tích tài chính thường sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế, phương pháp tính (xác định) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phương pháp tương quanv.v...
1.3.1. Phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế
Để đánh giá các kết quả kinh tế cũng như kết quả của việc thực hiện các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra, phân tích có thể sử dụng phương pháp phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế, phương pháp so sánh, phương pháp đồ biểu, đồ thịv.v... trong đó chủ yếu là phương pháp so sánh.
* Về phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh, người ta sẽ đạt được các mục đích sau đây:
- Thứ nhất, qua so sánh, người ta biết được mức độ (kết quả) của việc thực hiện các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra. Muốn vậy, cần tiến hành so sánh giữa kết quả thực tế đạt được với mục tiêu hay kế hoạch đặt ra.
- Thứ hai, qua so sánh, người ta biết được tốc độ, xu hướng phát triển của các hiện tượng và kết quả kinh tế; Muốn vậy cần so sánh giữa kết quả của kì này với kết quả của các kì trước.
- Thứ ba, qua so sánh sẽ biết được mức độ tiên tiến hay lạc hậu của từng đơn vị trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình. Để đạt được mục đích này, cần tiến hành so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác có cùng loại hình và qui mô hoạt động, đồng thời so sánh giữa kết quả của từng đơn vị với kết quả trung bình của tổng thể.
Tiến hành việc so sánh nói trên, có thể so sánh bằng số tuyệt đối, có thể so sánh bằng số tương đối (thông qua các tỉ lệ), đồng thời phải có hai điều kiện:
- Một là phải có (tồn tại) ít nhất hai chỉ tiêu hoặc hai đại lượng thì mới có thể so sánh được;
- Hai là các chỉ tiêu, các đại lượng khi so sánh với nhau phải có cùng một nội dung kinh tế và cùng một tiêu chuẩn biểu hiện.
1.3.2. Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế.
Như người ta biết, các hiện tượng và kết quả kinh tế thường chịu tác động bởi rất nhiều các nhân tố khác nhau. Các nhân tố có thể làm tăng, có thể làm giảm các kết quả kinh tế; nó có thể là nhân tố khách quan, có thể là nhân tố chủ quan; có thể là nhân tố chủ yếu và có thể là nhân tố thứ yếu v.v...Việc nhận thức được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố là vấn đề bản chất của phân tích.
Để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phân tích có thể sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối, phương pháp chỉ số v.v...
1.3.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn.
Phương pháp thay thế liên hoàn (còn gọi là phương pháp thay thế kiểu mắt xích) được sử dụng để xác định (tính) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết qủa kinh tế khi các nhân tố ảnh hưởng này có quan hệ tích số, thương số hoặc kết hợp cả tích và thương với kết quả kinh tế. Nội dung và trình tự của phương pháp này như sau:
- Trước hết, phải biết đựơc số lượng các nhân tốt ảnh hưởng, mối quan hệ của chung với chỉ tiêu phân tích, từ đó xác định được công thức tính của chỉ tiêu.
- Thứ hai, cần sắp xếp thứ tự các nhân tố theo một trình tự nhất định: Nhân tố số lượng xếp trước, nhân tố chất lượng xếp sau; trường hợp có nhiều nhân tố số lượng cùng ảnh hưởng thì nhân tố chủ yếu xếp trước nhân tố thứ yếu xếp sau và không đảo lộn trình tự này.
- Thứ ba, tiến hành lần lượt thay thế từng nhân tố một theo trình tự nói trên - Nhân tố nào được thay thế, nó sẽ lấy giá trị thực tế từ đó, còn các nhân tố chưa được thay thế phải giữ nguyên giá trị ở kỳ gốc hoặc kỳ kế hoạch - Thay thế xong một nhân tố, phải tính ra kết quả cụ thể của lần thay thế đó, lấy kết quả này so với (trừ đi) kết quả của bước trước nó thì chênh lệch tính được chính là kết quả do ảnh hưởng của nhân tố vừa được thay thế.
- Cuối cùng, có bao nhiêu nhân tố phải thay thế bấy nhiêu lần và tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố phải bằng với đối tượng cụ thể của phân tích (chính là chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch hoặc kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích).
Để làm rõ các vấn đề lý luận ở trên, có thể lấy một số ví dụ khái quát như sau:
Ví dụ 1: Giả định chỉ tiêu A cần phân tích; A tuỳ thuộc vào 3 nhân tố ảnh hưởng, theo thứ tự a, b và c; các nhân tố này có quan hệ tích số chỉ tiêu A, từ đó chỉ tiêu A được xác định cụ thể như sau:
A = a.b.c
Ta quy ước thời kỳ kế hoạch được ký hiệu là số 0 (số không) còn kỳ thực tế được ký hiệu bằng số 1 (số một) - Từ quy ước này, chỉ tiêu A kỳ kế hoạch và kỳ thực tế lần lượt được xác định như sau:
A0 = a0 . b0 . c0 và
A1 = a1 . b1 . c1
Đối tượng cụ thể của phân tích được xác định là:
A1 - A0 = DA
Chênh lệch nói trên có thể được giải thích bởi ảnh hưởng của ba nhân tố cụ thể là a, b và c; bằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt được xác định như sau:
- Thay thế lần 1: Thay thế nhân tố a:
a1 . b0 . c0 - a0 . b0 . c0 = Da
Da là ảnh hưởng của nhân tố a.
- Thay thế lần 2: Thay thế nhân tố b.
a1b1c0 - a1b0c0 = Db
Db là kết quả ảnh hưởng của nhân tố b.
- Thay thế lần 3: Thay thế nhân tố c.
a1 . b1 . c1 - a1b1c0 = Dc
Dc là nhân tố ảnh hưởng của nhân tố c.
- Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có:
Da + Db +Dc = DA = A1 - A0
Ví dụ 2: Chỉ tiêu B cần phân tích: B tuỳ thuộc vào ba nhân tố, theo thứ tự a, b, c; các nhân tố này có quan hệ kết hợp cả thương và tích với chỉ tiêu B, từ đó B được xác định như sau:
B = . c
Ta cũng quy ước như ví dụ 1, từ đó B0 và B1 lần lượt được xác định như sau:
B0 =
a0
. c0 và
b0
B1 =
a1
. c1
b1
Khi so sánh giữa B1 với B0, ta có:
B1 - B0 = DB
DB cũng do ảnh hưởng của ba nhân tố a, b, c và bằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt xác định được như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a (thay thế lần 1):
a1
. c0 -
a0
. c0 = Da
b0
b0
- Do ảnh hưởng của nhân tố b (thay thế lần 2):
a1
. c0 -
a1
. c0 = Db
b1
b0
- Do ảnh hưởng của nhân tố c (thay thế lần 3):
a1
. c1 -
a1
. c0 = Dc
b1
b1
- Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta có:
Da + Db + Dc = DB = B1 - B0
Từ thí dụ 1 đã trình bày ở trên, ta nhận thấy rằng ở các lần thay thế, giữa các đại lượng khi loại trừ lẫn nhau tồn tại các thừa số chung. Ví dụ ở lần thay thế thứ nhất, có các thừa số chung là b0, c0; ở lần thay thế thứ 2, các thừa số chung là a1, c0, còn ở lần thay thế thứ 3, các thừa sốchung là a1, b1. Về mặt toán học, người ta có thể nhóm các thừa số chung mà không làm thay đổi các kết quả đã được tính toán. Kết quả của việc nhóm các thừa số chung, ta được phương pháp khác để tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố - đó là phương pháp số chênh lệch (lưu ý khi nhóm các thừa số chung vẫn phải tuân theo các quy tắc và trình tự của phương pháp thay thế liên hoàn, đặc biệt là không được làm đảo lộn thứ tự ảnh hưởng của các nhân tố).
Cụ thể, bằng phương pháp nói trên, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố ở ví dụ 1 lần lượt được xác định như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a:
Da = (a1 - a0)b0c0
- Do ảnh hưởng của nhân tố b:
Db = a1(b1 - b0)c0
- Do ảnh hưởng của nhân tố c:
Dc = a1b1(c1 - c0)
- Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta cũng có:
Da + Db + Dc = DA = A1 - A0
Từ kết quả tính toán ở trên, ta nhận thấy rằng thực chất của phương pháp số chênh lệch chỉ là hình thức giản đơn của phương pháp thay thế liên hoàn và nó thường được sử dụng khi các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ tích số với chỉ tiêu phân tích (việc tính toán khi đó sẽ đơn giản hơn).
1.3.2.2. Phương pháp cân đối.
Khác với phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối được sử dụng để tính mức độc ảnh hưởng của từng nhân tố khi chúng có quan hệ tổng với chỉ tiêu phân tích, cho nên mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố là độc lập với nhau và việc tính toán cũng đơn giản hơn.
Cụ thể, để tính mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó, chỉ cần tính ra chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch (kỳ gốc) của bản thân nhân tố đó và không cần quan tâm đến các nhân tố khác.
Ví dụ:
Chỉ tiêu E cần phân tích: E chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố a, b, c và các nhân tố này có quan hệ tổng với chỉ tiêu E. Chỉ tiêu E được xác định như sau:
E = a + b - c
Cũng qui ước như ở phần trước, ta có:
E0 = a0 + b0 - c0
E1 = a1 + b1 - c1
Tiến hành so sánh giữa chỉ tiêu kỳ thực tế với kỳ kế hoạch ta có:
E1 - E0 = DE
Khi sử dụng phương pháp cân đối, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt được xác định như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a:
Da = a1 - a0
- Do ảnh hưởng của nhân tố b:
Db = b1 - b0
- Do ảnh hưởng của nhân tố c:
Dc = -(c1 - c0)
- Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có:
Da + Db + Dc = DE = E1 - E0
1.3.3. Phương pháp tương quan
Như người ta biết, giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế thường tồn tại những mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Đặc trưng cơ bản của các mối quan hệ này là sự thay đổi của hiện tượng hoặc kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo theo) sự thay đổi của các hiện tượng hoặc kết quả kinh tế khác. Nếu xét theo quan điểm triết học, giữa chúng tồn tại mối quan hệ nhân quả, còn xét theo quan điểm toán học, giữa chúng có mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc và nó có thể được biểu hiện qua những hàm tương quan khác nhau - Vấn đề đặt ra là lựa chọn phương trình tương quan nao để biểu thị tốt nhất sự phụ thuộc lẫn nhau hay là mối liên hệ chặt chẽ giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế - Đây cũng là vấn đề bản chất khi sử dụng các hàm tương quan trong phân tích.
Mối tương quan giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế có thể tồn tại dưới hai dạng: Tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch.
Trường hợp tương quan tỉ lệ thuận - Trong trường hợp này, việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ kéo theo (xác định) việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Người ta có thể gọi là mối tương quan đồng biến. Ví dụ, mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí sản xuất có tính chất biến đổi - trong điều kiện các nhân tố khác không đổi (điều kiện yếu tố sản xuất không đổi), khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí sản xuất biến đổi cũng tăng lên và ngược lại. Nếu biểu hiện và theo dõi sự biến thiên của hai hiện tượng nói trên trong nhiều năm liên tục (ít nhất là 5 năm) trên cùng một hệ trục toạ độ XOY - trong đó OX là trục hoành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn OY là trục tung, biểu thị tổng số chi phí sản xuất biến đổi, người ta nhận thấy rằng đường biểu diễn của nó có dạng đường thẳng, gần trùng với đường biểu diễn của hàm số mà phương trình của nó có dạng:
Y = a + bx
điều đó có nghĩa là, có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng y = a + bx để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí sản xuất biến đổi; trong đó:
Ox là trục biểu hiện giá trị khối lượng sản phẩm
Oy là trục biểu hiện tổng số chi phí biến đổi.
Đồ thị của hàm số y = a + bx có dạng là đường thẳng - Hình 1y
a
O
x
y = a + bx
Hình 1
- Trường hợp tương quan tỉ lệ nghịch - Trường hợp này ngược lại với trường hợp trên, nghĩa là việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo theo) việc giảm của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Có thể gọi nó là mối tương quan nghịch biến. Ví dụ mối tương quan giữa giá trị khối lượng sản phẩm sản xuất với tỉ suất chi phí sản xuất có tính chất cố định: Trong điêu kiện của nhân tố khác không đổi, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí cố định không biến động, còn tỉ suất của nó thì giảm và ngược lại. Cũng theo dõi sự biến động của hai hiện tượng trên cùng một hệ trục tọa độ xOy, trong đó Ox là trục hoành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn Oy là trục tung, biểu thị tỉ suất chi phí cố định, khi đó đường biểu diễn của nó có dạng đường cong gần giống với đường cong hypecbol ứng với hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng:
điều đó có nghĩa là có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình có dạng để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất và tỉ suất chi phí cố định - Trong đó Ox là trục biểu hiện khối lượng sản phẩm sản xuất; còn Oy là trục biểu hiện tỉ suất chi phí cố định.
Đồ thị của hàm số được biểu thị như sau- Hình 2
y
a
O
x
Hình 2
Các kết quả thu dược khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại suy chủ yếu phục vụ cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. Nhưng khi sử dụng các kết quả đó phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các hiện tượng và kết quả kinh tế đã xẩy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện tại và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác. Do đó, cần phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến hành điều chỉnh phù hợp với tình hình biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu, giúp cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất.
1.4. Tổ chức công tác phân tích và các loại phân tích
Cũng như bất kì công tác nào của doanh nghiệp