Phân tích Chi phí - Lợi ích (CBA) ước lượng và tính tổng giá trị bằng tiền tương đương
đối với những lợi ích và chi phí của cộng đồng từ các dự án nhằm xác định xem chúng có
đáng để đầu tư hay không. Các dự án này có thể là xây dựng đập ngăn nước hay đường
cao tốc, hay có thể là các chương trình đào tạo và các hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Ý
tưởng về sự đánh giá mang tính chất kinh tế được bắt đầu với Jules Dupuit, một kỹ sư
người Pháp mà 1848 bài báo của ông vẫn còn có giá trị đọc. Nhà kinh tế người Anh,
Alfred Marshall, đã có một số khái niệm chính thức đặt nền tảng cho CBA. Nhưng quá
trình phát triển thực tế của CBA là kết quả từ lực đẩy của Luật Hàng Hải Liên Bang
(Federal Navigation Act) năm 1936. Luật này đòi hỏi Đoàn Kỹ sư của Mỹ (U.S. Corps of
Engineers) phải tiến hành các dự án nâng cấp hệ thống đường thuỷ khi tổng lợi ích của
một dự án vượt quá chi phí của dự án đó. Vì vậy, Đoàn Kỹ sư đã xây dựng những
phương pháp có tính chất hệ thống nhằm đánh giá những lợi ích và chi phí đó. Các kỹ sư
này đã tiến hành công việc với sự hỗ trợ của nhóm các nhà chuyên môn trong lĩnh vực
kinh tế học. Cho đến tận 20 năm sau đó, vào những năm 1950, các nhà kinh tế đã cố gắng
xây dựng một tập hợp những phương pháp chặt chẽ, nghiêm ngặt để tính toán lợi ích, chi
phí và quyết định xem liệu một dự án có đáng để thực hiện hay không. Còn một số vấn đề
về kỹ thuật của CBA vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn thậm chí cả vào thời điểm hiện
nay, song những điều căn bản dưới đây đã được xây dựng khá chắc chắn.
9 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2011 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu về sự phân tích chi phí, lợi ích cost-benefit analysis, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học bang San José
Khoa Kinh tế học.
Giới thiệu về Sự Phân tích Chi phí - Lợi ích
Cost-Benefit Analysis
Thayer Watkins
Phiên dịch: Lê Nga
Phân tích Chi phí - Lợi ích (CBA) ước lượng và tính tổng giá trị bằng tiền tương đương
đối với những lợi ích và chi phí của cộng đồng từ các dự án nhằm xác định xem chúng có
đáng để đầu tư hay không. Các dự án này có thể là xây dựng đập ngăn nước hay đường
cao tốc, hay có thể là các chương trình đào tạo và các hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Ý
tưởng về sự đánh giá mang tính chất kinh tế được bắt đầu với Jules Dupuit, một kỹ sư
người Pháp mà 1848 bài báo của ông vẫn còn có giá trị đọc. Nhà kinh tế người Anh,
Alfred Marshall, đã có một số khái niệm chính thức đặt nền tảng cho CBA. Nhưng quá
trình phát triển thực tế của CBA là kết quả từ lực đẩy của Luật Hàng Hải Liên Bang
(Federal Navigation Act) năm 1936. Luật này đòi hỏi Đoàn Kỹ sư của Mỹ (U.S. Corps of
Engineers) phải tiến hành các dự án nâng cấp hệ thống đường thuỷ khi tổng lợi ích của
một dự án vượt quá chi phí của dự án đó. Vì vậy, Đoàn Kỹ sư đã xây dựng những
phương pháp có tính chất hệ thống nhằm đánh giá những lợi ích và chi phí đó. Các kỹ sư
này đã tiến hành công việc với sự hỗ trợ của nhóm các nhà chuyên môn trong lĩnh vực
kinh tế học. Cho đến tận 20 năm sau đó, vào những năm 1950, các nhà kinh tế đã cố gắng
xây dựng một tập hợp những phương pháp chặt chẽ, nghiêm ngặt để tính toán lợi ích, chi
phí và quyết định xem liệu một dự án có đáng để thực hiện hay không. Còn một số vấn đề
về kỹ thuật của CBA vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn thậm chí cả vào thời điểm hiện
nay, song những điều căn bản dưới đây đã được xây dựng khá chắc chắn.
Những nguyên tắc của sự phân tích chi phí - lợi ích.
Một trong các vấn đề của CBA là việc đánh giá nhiều yếu tố trong cơ cấu lợi ích và chi
phí về bản chất là khá rõ ràng, nhưng cũng có những yếu tố khác không thể đưa ra
phương pháp đánh giá. Vì vậy người ta cần đến một số nguyên tắc cơ bản như là sự chỉ
dẫn.
Phải có một đơn vị đo lường chung.
Để tiến đến một kết luận đối với một dự án - ở mọi khía cạnh - cả tích cực và tiêu cực -
phải được thể hiện theo một đơn vị chung. Đơn vị chung tiện lợi nhất là tiền tệ. Điều này
có nghĩa là tất cả những lợi ích và chi phí của một dự án nên được tính theo giá trị bằng
tiền tương đương. Một chương trình có thể tạo ra những lợi ích không được biểu hiện
trực tiếp bởi đồng tiền, nhưng có một số khoản tiền mà những người nhận được lợi ích sẽ
quan tâm đến như những lợi ích của dự án. Ví dụ, một dự án có thể cung cấp cho nhưng
người cao tuổi tại một khu vực nào đó một cuộc khám bệnh định kỳ hàng tháng miễn phí.
Giá trị của lợi ích đó đối với một người cao tuổi là số tiền nhỏ nhất mà người ta chấp
nhận để thể thế cho sự chăm sóc y tế. Giá trị này có thể thấp hơn giá trị thị trường của
dịch vụ chăm sóc y tế. Người ta giả sử rằng những lợi ích sâu xa hơn như từ việc duy trì
không gian mở hay những vị trí lịch sử có một giá trị bằng tiền có hạn đối với công
chúng. Nhưng lợi ích và chi phí của một dự án không chỉ phải được thể hiện theo giá trị
bằng tiền tương đương, mà chúng còn phải được thể hiện bằng đồng tiền vào một thời
gian cụ thể. Điều này không chỉ có nguyên nhân từ những khác biệt về giá trị đồng tiền
tại những thời gian khác nhau do tình trạng lạm phát. 1 USD có thể sử dụng 5 năm kể từ
bây giờ không tốt bằng 1USD có thể sử dụng bây giờ. Điều này là do 1USD sử dụng vào
thời điểm hiện tại có thể được đầu tư và đem lại lợi nhuận trong vòng 5 năm và sẽ có giá
trị cao hơn 1 USD 5 năm sau. Nếu tỷ lệ lãi suất là r thì 1 USD đầu tư trong t năm sẽ tăng
lên bằng (1+ r)t. Do đó số tiền phải được gửi từ bây giờ để đem lại 1 USD sau t năm
trong tương lai là (1+ r) - t. Đây gọi là giá trị chiết khấu hay giá trị hiện tại của 1 USD có
thể sử dụng t năm trong tương lai. Khi lấy giá trị bằng USD của lợi ích vào thời điểm nào
đó trong tương lai nhân lên với giá trị chiết khấu của 1 USD vào thời điểm đó trong
tương lai, kết quả sẽ là giá trị chiết khấu hiện tại từ lợi ích đó của dự án. Áp dụng tương
tự đối với chi phí. Lợi ích ròng của các dự án bằng tổng giá trị hiện tại của các lợi ích trừ
đi giá trị hiện tại của các chi phí. Lựa chọn tỷ lệ lãi suất phù hợp để sử dụng cho việc
chiết khấu là một vấn đề riêng sẽ được xem xét ở phần sau.
Những đánh giá CBA phản ánh những đánh giá của người tiêu dùng và nhà sản
xuất được thể hiện qua hành vi thực tế.
Sự đánh giá về lợi ích và chi phí cần phản ánh những ưu tiên được thể hiện thông qua các
lựa chọn. Ví dụ, những bước cải thiện trong lĩnh vực vận tải thường liên quan đến việc
tiết kiệm thời gian. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để xác định giá trị bằng tiền của khoảng
thời gian tiết kiệm được. Giá trị này không chỉ đơn thuần là giá trị thời gian mà nữhng
người lập kế hoạch về việc vận tải cân nhắc hay thậm chí là giá trị thời gian theo đánh giá
của công chúng. Giá trị thời gian nên được đánh giá theo sự bày tỏ của công chúng thông
qua những lựa chọn liên quan đến sự tương xứng giữa thời gian và tiền bạc. Nếu mọi
người chọn cách đỗ xe gần nơi đến của họ với mức phí 50 cent hay đỗ xe ở xa hơn và
phải mất hơn 5 phút để đi bộ, họ luôn lựa chọn chi tiền và tiết kiệm thời gian, công sức,
vì vậy họ đã thể hiện rằng thời gian của họ có giá trị hơn 10 cent 1 phút. Nếu không có sự
bất đồng giữa hai lựa chọn, họ sẽ cho thấy rằng giá trị thời gian của họ chính xác là 10
cent mỗi phút. Phần đặt ra thách thức lớn nhất trong CBA là tìm những lựa chọn trong
quá khứ thể hiện sự tương xứng và tương đương trong những vấn đề ưu tiên. Ví dụ, việc
đánh giá lợi ích của bầu không khí trong sạch hơn có thể được xây dựng thông qua việc
tìm xem người ta trả ít hơn bao nhiêu cho nhà ở tại các khu vực ô nhiễm hơn, đồng thời
tương tự về đặc điểm và vị trí nhà ở tại các khu vực ít bị ô nhiễm hơn. Nhìn chung, giá trị
của môi trường không khí trong lành hơn đối với con người khi được thể hiện qua những
lựa chọn nghiêm khắc của thị trường có vẻ thấp hơn mức đánh giá khoa trương về một
môi trường không khí trong sạch.
Những lợi ích thường được đánh giá bởi sự lựa chọn của thị trường.
Khi người tiêu dùng tiến hành mua ở các mức giá thị trường, họ cho rằng những thứ họ
mua ít nhất cũng đem lại lợi ích đối với họ bằng số tiền khi họ từ bỏ nó. Người tiêu dùng
sẽ tăng mức tiêu thụ hàng hóa tới một điểm mà tại đó 1 đơn vị tăng thêm (lợi ích cận
biên) cân bằng với chi phí cận biên của đơn vị đó, theo giá trị thị trường. Do đó với bất
cứ người tiêu dùng nào mua một lượng hàng hóa nào đó, lợi ích cận biên cân bằng với
giá thị trường. Lợi ích cận biên sẽ làm giảm khối lượng tiêu thụ vì giá thị trường phải
giảm để người tiêu dùng có thể tiêu thụ một khối lượng hàng hóa lớn hơn. Mối quan hệ
giữa giá thị trường và khối lượng tiêu thụ được gọi là biểu cầu (demand schedule). Vì vậy
biểu cầu cung cấp thông tin về lợi ích cận biên cần thiết để đặt một giá trị bằng tiền vào
một mức gia tăng về tiêu thụ hàng hóa.
Tổng lợi ích đối với một mức gia tăng về tiêu thụ là một miền nằm dưới đường cầu.
Sự gia tăng về lợi ích xuất phát từ một sự gia tăng tiêu dùng là tổng lợi ích cận biên nhân
với mỗi số tăng thêm trong tiêu dùng. Khi số tăng thêm về tiêu dùng được xem như ngày
càng nhỏ, tổng tiến dần đến miền nằm dưới đường lợi ích biên. Nhưng đường lợi ích biên
lại trùng với đường cầu nên mức tăng lợi ích là miền dưới đường cầu. Khi mức tăng tiêu
dùng nhỏ so với tổng tiêu dùng thì tổng lợi ích được tính một cách gần đúng thông qua
giá thị trường của mức tiêu dùng tăng lên, như đã chỉ ra trong một phân tích về phúc lợi,
nghĩa là giá thị trường nhân với mức gia tăng tiêu dùng.
Một số thước đo lợi ích đòi hỏi sự đánh giá cuộc sống con người.
Đôi khi CBA cần đánh giá lợi ích của việc cứu sống con người. Có ác cảm khá lơn trong
đại chúng về ý tưởng đặt 1 USD vào cuộc sống con người. Các nhà kinh tế nhận ra rằng
không thể đầu tư vào tất cả các dự án hứa hẹn cứu vớt một sinh mạng và một số cơ sở
hợp lý cần thiết để lựa chọn xem các dự án nào có thể chấp nhận được và các dự án nào
nên loại bỏ. Tranh cãi đã lắng dịu khi người ta nhận ra rằng lợi ích của những dự án như
vậy đang làm giảm nguy cơ dẫn đến cái chết. Có nhiều trường hợp con người tự nguyện
chấp nhận tính chất rủi ro tăng lên để được trả công cao hơn, như trong lĩnh vực khai thác
dầu hay than đá, hay tiết kiệm thời gian với tốc độ cao hơn trong việc đi lại bằng ô tô.
Những sự lựa chọn này có thể có thể được sử dụng để ước tính chi phí cá nhân mà con
người đặt vào tình trạng rủi ro tăng thêm và ước tính giá trị của rủi ro giảm đối với họ
phân tích này tương ứng với việc đặt giá trị kinh tế vào số lượng dự tính những người
được cứu sống.
Phân tích một dựa án nên bao gồm sự so sánh có đối chọi với không có.
Tác động của một dự án là sự khác nhau giữa trạng thái có hoặc không có dự án trong
lĩnh vực nghiên cứu. Điều này nghĩa là khi một dự án đang được đánh giá, phân tích phải
ước tính không chỉ tình huống đi kèm với dự án mà còn phải tính đến tình huống không
có dự án kèm theo. Ví dụ, trong việc xác định tác động của hệ thống vân tải nhanh theo
nguyên tắc chủ đạo được ấn định như hệ thống Vận tải Nhanh Vùng Vịnh (Bay Area
Rapid Transit - BART), ở Vùng Vịnh San Francisco, một số người thay vì sử dụng xe
buýt sẽ sử dụng BART, chi phí phụ trội của một hệ thống xe buýt mở rộng như vậy sẽ
được khấu trừ từ chi phí của BART. Nói cách khác, sự lựa chọn với dự án phải được xem
xét và cụ thể hoá trong việc đánh giá dự án. Cần lưu ý rằng sự so sánh có hoặc không có
khác với sự so sánh trước và sau.
Một ví dụ khác cho thấy tầm quan trọng của việc xem xét các tác động của một dự án và
một sự so sánh có-và-không có. Giả sử một dự án tưới tiêu đề xuất để tăng cường sản
xuất cotton ở Arizona. Nếu Bộ Nông nghiệp Mỹ hạn chế số lượng côtton ở Mỹ bằng một
hệ thống hạn ngạch, khi đó việc sản xuất cotton ở Arizzona có thể được bù đắp thông qua
một sự cắt giảm trong hạn ngạch sản xuất cotton đối với Missisippi. Do đó tác động của
một dự án sản xuất cotton ở Mỹ có thể bằng 0 chứ không ảnh hưởng nhiều đến các kết
quả của dựa án.
Phân tích chi phí-lợi ích bao gồm một lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt.
Các tác động của một dự án phải được định nghĩa cho một lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt,
đó có thể là một thành phố, một bang, quốc gia hay thế giới. Trong nhiều ví dụ liên quan
đến cotton ở trên, tác động của dự án có thể là con số 0 với quốc gia nhưng vẫn là giá trị
dương với Arizona. Bản chất của lĩnh vực nghiên cứu thường được đặc trưng bởi tổ chức
đại diện cho phân tích này. Rất nhiều ảnh hưởng của một dự án có thể bị "loại bỏ" khỏi
một lĩnh vực nghiên cứu nhưng không vượt khỏi một lĩnh vực nhỏ hơn. Việc cụ thể hoá
lĩnh vực nghiên cứu có thể tuỳ ý nhưng nó có thể tác động đáng kể đến những kết quả của
phân tích này.
Cần phải tránh tính 2 lần lợi ích và chi phí.
Đôi khi tác động của một dự án có thể được đánh giá theo 2 hay nhiều cách. Ví dụ, khi
một đường cao tốc được nâng cấp làm giảm thời gian đi lại và nguy cơ bị thương, giá trị
tài sản ở các khu vực được sự phục vụ của đường cao tốc sẽ tăng lên. Sự tăng thêm về giá
trị do dự án này là một hướng đi tốt, ít nhất về mặt nguyên tắc, để đánh giá những lợi ích
của một dự án. Nhưng nếu giá trị tài sản gia tăng được đưa vào thì không cần thiết phải
đưa vào giá trị thời gian và những cuộc sống được cứu do tu sửa đường cao tốc. Giá trị
tài sản tăng lên do do những lợi ích của việc tiết kiệm thời gian và rủi ro giảm. Để đưa
vào cả mức gia tăng về tài sản, việc tiết kiệm thời gian và giảm rủi ro sẽ bao gồm cả việc
tính 2 lần.
Tiêu chuẩn quyết định đối với các dự án.
Nếu giá trị hiện tại chiết khấu của lợi ích vượt quá giá trị hiện tại chiết khấu của chi phí
thì dự án được coi là đáng đầu tư. Nó tương đương với điều kiện lợi ích ròng phải là số
dương. Điều kiện tương đương khác là chỉ số (giá trị lợi ích hiện tại/giá trị chi phí hiện
tại) phải >1.
Nếu có nhiều hơn 1 dự án hạn chế lẫn nhau có giá trị hiện tại ròng dương thì phải có sự
phân tích xa hơn. Từ mô hình dự án hạn chế lẫn nhau, dự án được chọn là dự án có giá trị
hiện tại ròng cao nhất.
Nếu lượng tiền vốn cần để thực hiện tất cả các dự án có giá trị hiện tại ròng dương ít hơn
lượng tiền vốn sẵn có, điều này có nghĩa là tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong việc tính
toán các giá trị hiện tại phải được tính toán lại bằng cách sử dụng tỷ lệ chiết khấu cao
hơn. Có thể lấy một số ví dụ và cho phép sai số để tìm một tỷ lệ chiết khấu để lượng tiền
vốn cần cho các dự án có giá trị hiện tại ròng dương không lớn hơn lượng tiền vốn sẵn
có. Đôi khi, như một sự thay thế đối với phương thức này, con người cố gắng chọn những
dự án tốt nhất trên cơ sở một sự thay thế đối với phương thức này, con người cố gắng
chọn những dự án tốt nhất trên cơ sở một số thước đo như tỷ suất hoàn trả nội bộ hay chỉ
số lợi ích/chi phí. Điều này không hợp lý do một vài nguyên nhân.
Độ lớn của chỉ số lợi ích/chi phí là một giá trị tuỳ ý do một số chi phí như chi phí hoạt
động có thể được khấu trừ từ lợi ích và bởi vậy không được đưa vào tổng chi phí. Điều
này có thể được thực hiện đối với một số dự án.
Việc điều chỉnh lợi ích và chi phí này sẽ không ảnh hưởng đến lợi ích ròng và nó sẽ
không làm tăng chỉ số lợi ích/chi phí.
Một ví dụ.
Để minh hoạ CBA có thể áp dụng cho một dự án như thế nào, chúng ta hãy xem xét việc
nâng cấp đường cao tốc như mở rộng Đại lộ 101 vào San Jose. Đại lộ ở địa phương --
không mang lại lối đi rộng và thuận lợi cho việc đi lại của những người đi vào San Jose -
không có một đường phân chia ở giữa và quá nhiều những cuộc tai nạn khảm khốc đã
dẫn đến cái tên "Con đường máu" (Blood Alley). Việc nâng cấp đường cao tốc sẽ tạo ra
khả năng tiết kiệm thời gian và hạ thấp rủi ro. Nhưng không thể chối cãi được rằng hoạt
động giao thông sẽ sôi nổi hơn so với thời kỳ của hệ thống đường cao tốc cũ. Sau đây là
sự phân tích ngắn gọn sử dụng số liệu giả thuyết.
Số liệu về các chuyến đi Không mở rộng, chỉ có
"Blood Alley"
Mở rộng 101 và "Blood
Alley"
Giờ cao điểm
Chuyến đi của hành khách
(mỗi giờ)
3.000 4.000
Thời gian chuyến đi (phút) 50 30
Giá trị thời gian (USD/phút) 0,1 USD 0,1 USD
Giờ không cao điểm
Chuyến đi của hành khách
(mỗi giờ)
500 555,55
Thời gian chuyến đi 35 25
Giá trị thời gian (USD/phút) 0,08 USD 0,08 USD
Tai nạn giao thông (mỗi năm) 12 6
Số liệu chỉ ra rằng đối với việc đi lại vào giờ cao điểm, chi phí thời gian của một chuyến
đi là 5 USD nếu không có dự án và 3 USD nếu có dự án. Giả sử chi phí vận hành đối với
1 phương tiện chuyên chở không bị ảnh hưởng bởi một dự án và = 4 USD.
Dự án làm giảm bớt chi phí của một chuyến đi và công chúng phản ứng bằng cách tăng
số chuyến đi. Có một sự gia tăng về thặng dư của người tiêu dùng cả đối với việc đi lại
không có dự án và việc đi lại trong điều kiện có dự án.
Đối với việc đi lại theo bất cứ cách nào, lợi ích của dự án = giá trị thời gian tiết kiệm
được nhân với số chuyến đi. Đối với việc đi lại vào giờ cao điểm, dự án tiết kiệm được 2
USD và đối với việc đi lại ngoài giờ cao điểm, nó tiết kiệm được 0,8 USD. Đối với việc
đi lại được tạo ra nhờ dự án, lợi ích bằng ½ giá trị thời gian tiết kiệm được nhân với mức
tăng của số chuyến đi.
Lợi ích mỗi giờ là:
Loại Chuyến đi theo bất cứ cách
nào
Chuyến đi được tạo ra bởi
dự án
Tổng
Giờ cao điểm 6.000,00 1.000,00 7.000,00
Giờ không cao
điểm
400,00 22,22 422,22
Để thay đổi lợi ích tới một mức cơ bản hàng năm, người ta lấy lợi ích theo giờ của mỗi
loại chuyến đi nhân với số giờ mỗi năm cho loại du lịch đó. Có 260 ngày làm việc mỗi
năm và có ít nhất 6 giờ cao điểm mỗi ngày trong tuần, có 1560 giờ cao điểm mỗi năm.
Như vậy còn lại 7200 giờ không cao điểm mỗi năm. Với những con số này, lợi ích hàng
năm là:
Loại Chuyến đi theo bất cứ cách
nào (USD)
Chuyến đi được tạo ra bởi
dự án (USD)
Tổng
(USD)
Giờ cao điểm 9.360.000 1.560.000 10.020.000
Giờ không 2.880.000 160.000 3.040.000
cao điểm
Tổng 12.240.000 1.720.000 13.960.000
Giá trị của việc giảm số tai nạn có thể được đánh giá theo giá trị kinh tế tương đương mà
con người đặt vào cuộc sống của họ khi đưa ra những lựa chọn liên quan đến rủi ro và
tiền.. Nếu thị trường lao động trả lương cho những công việc có tính chất rủi ro khác
nhau để con người chấp nhận một mức gia tăng về nguy cơ tử vong khoảng 1/1.000 mỗi
năm nhằm đáp ứng sự gia tăng về thu nhập khoảng 400 USD 1 năm thì một dự án sẽ
giảm nguy cơ tử vong mỗi năm khoảng 1/1.000, đem lại lợi ích cho mỗi người bị ảnh
hưởng bởi nó là 400 USD 1 năm. Giá trị tiềm ẩn của một sinh mạng trong trường hợp này
là 400.000 USD. Do đó lợi ích của dự án với rủi ro giảm là số người được cứu sống theo
dự tính nhân với giá trị tiềm ẩn của một sinh mạng.
Đối với dự án đường cao tốc, con số này là 6 * 400.000 USD = 2.400.000 USD hàng
năm.
Do đó lợi ích hàng năm của dự án là:
Loại lợi ích Giá trị lợi ích mỗi năm (USD)
Tiết kiệm thời gian 13.960.000
Rủi ro giảm 2.400.000
Giả sử mức lợi ích này tiếp tục ở một tỷ lệ cố định trong một khoảng thời gian sống 30
năm của dựa án.
Chi phí cho đường cao tốc bao gồm chi phí về quyền ưu tiên, chi phí xây dựng và chi phí
tu sửa của nó. Chi phí về quyền ưu tiên là chi phí đất đai và bất cứ kiến trúc nào trên đó
phải được mua trước khi bắt đầu xây dựng đường cao tốc. Với những mục đích của ví dụ
này, chi phí về quyền ưu tiên là 100 triệu USD và phải được trả trước thời gian bắt đầu
của bất cứ công việc xây dựng nào. Ít nhất một phần của chi phí về quyền ưu tiên đối với
một đường cao tốc có thể thu lại vào giai đoạn cuối trong thời gian tồn tại của đường cao
tốc nếu nó không được tái xây dựng. Ví dụ, giả sử toàn bộ chi phí quyền ưu tiên có thể
được thu về vào cuối thời gian sống 30 năm của dự án. Chi phí xây dựng là 200 triệu,
trang trải cho một giai đoạn 4 năm. Chi phí tôn tạo là 1 triệu USD mỗi năm một khi
đường cao tốc được hoàn thành.
Lịch trình cho lợi ích và chi phí đối với dự án như sau:
Thời gian Lợi ích Quyền ưu tiên Chi phí xây dựng Duy trì
(năm) (triệu USD) (triệu USD) (triệu USD) (triệu USD)
0 0 100 0 0
1- 4 0 0 50 0
5 - 29 16,36 0 0 1
30 16,36 -100 0 1
Lợi ích và chi phí được tính theo đồng USD có giá trị cố định; nghĩa là, không có sự tăng
giá trong khi phân tích. Do đó lãi suất chiết khấu được sử dụng phải là lãi suất thực tế.
Nếu lãi suất đối với trái phiếu dài hạn là 8% và tỷ lệ lạm phát là 6 % thì lãi suất thực tế =
2%. Giá trị hiện tại của các dòng lợi ích và chi phí được chiết khấu ở tỷ lệ 2% trở lại thời
điểm 0 là như sau:
Giá trị hiện tại
(triệu USD)
Lợi ích 304,11
Chi phí
Quyền ưu tiên 44,79
Xây dựng 190,39
Duy trì 18,59
Lợi ích ròng 50,35
Giá trị hiện tại ròng dương 50,35 triệu và chỉ số lợi ích/chi phí =1,2 cho thấy dự án đáng
để đầu tư nếu chi phí vốn là 2%. Khi tỷ lệ chiết khấu là 3%, chỉ số lợi ích/chi phí thấp
hơn 1,0 một chút. Điều này có nghĩa là tỷ suất hoàn trả nội bộ dưới 3%. Khi chi phí vốn
là 3%, dự án không đáng giá để đầu tư.
Cần chú ý rằng giá trị thị trường của quyền ưu tiên đánh giá thấp chi phí cơ hội của việc
cống hiến đất đai cho đường cao tốc. Đất có giá trị 100 triệu do thu nhập sau thuế tài sản
của nó. Nền kinh tế đang trả nhiều hơn cho việc sử dụng thay thế nhưng một số khoản
thanh toán đã bị chuyển vào thuế. Giá trị hiện tại chiết khấu của các khoản trả cho việc sử
dụng thay thế có thể lơn hơn 150 triệu USD thay vì 100 triệu USD. Cách khác để đưa ra
quan điểm này là một trong những khoản chi phí cho đường cao tốc đông nghĩa với việc
các chính quyền địa phương mất đi nguồn thuế tài sản đối với đất đai được sử dụng. (TQ
hiệu đính, cách phân tích trên quên đi phần thuế nhà đất chính phủ có thể thu, nếu như số
đất đai đó không dùng vào xây đại lộ, do đó, có phần chú ý này nó