Đầu năm 1962, Viện Văn học trình lên cấp trên dự kiến kế hoạch kỷ niệm 200
năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965. Cuối năm đó Văn phòng ông Tố Hữu chuyển đến
Viện một bản tiểu luận, 91 trang đánh máy, nhan đề Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du
về Truyện Kiều. So sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của
ThanhTâm Tài Nhân (Trung Quốc), bản tiểu luận cho rằng công của Nguyễn Du chỉ là
ở tài phỏng dịch:
Rằng hay thì thật là hay,
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Tác giả là ông Tôn Quang Phiệt. Kèm theo còn có một bức thư viết tay gửi ông
Tố Hữu, yêu cầu được công bố bản tiểu luận. Dưới góc trái bức thư có lời ghi: "Ý anh
Lành: Do Viện quyết định"
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp thêm một ít tư liệu chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Góp thêm một ít tư liệu chung
quanh cái chết của Phạm Quỳnh
II- DIỄN BIẾN SỰ VIỆC Ở HIỀN SĨ
Đầu năm 1962, Viện Văn học trình lên cấp trên dự kiến kế hoạch kỷ niệm 200
năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965. Cuối năm đó Văn phòng ông Tố Hữu chuyển đến
Viện một bản tiểu luận, 91 trang đánh máy, nhan đề Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du
về Truyện Kiều. So sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bản tiểu luận cho rằng công của Nguyễn Du chỉ là
ở tài phỏng dịch:
Rằng hay thì thật là hay,
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Tác giả là ông Tôn Quang Phiệt. Kèm theo còn có một bức thư viết tay gửi ông
Tố Hữu, yêu cầu được công bố bản tiểu luận. Dưới góc trái bức thư có lời ghi: "Ý anh
Lành: Do Viện quyết định".
Ban lãnh đạo Viện Văn học đã cử tôi đi gặp ông Tôn Quang Phiệt. Tôi biết ông
Tôn Quang Phiệt trước Cách mạng là Hiệu trưởng Trường Thuận Hoá - Huế, hoạt động
Việt Minh ở Huế, sau Cách mạng làm Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa
Thiên; trong tiểu luận có đoạn ông phê phán ý kiến đề cao Truyện Kiều của "tên bồi bút
thực dân Phạm Quỳnh" nên tôi đã hỏi ông về vụ Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế năm 1945.
Ông cho biết: Ngày 14 tháng 8 năm 1945 Nhật tuyên bố đầu hàng nhưng lúc đó ở
Huế còn gần năm ngàn lính Nhật chưa bị tước vũ khí. Có tin báo: chúng đang liên lạc
với Phạm Quỳnh... Nhằm mục đích ngăn chặn, trưa ngày 23-8-1945, Chủ tịch Uỷ ban
Khởi nghĩa Trung bộ Trần Hữu Dực ra lệnh bắt khẩn cấp Phạm Quỳnh và Ngô Đình
Khôi... đem về giam ở nhà lao Thừa Phủ. Một tên hiến binh Nhật đến đập cửa nhà lao
đòi vào thăm "bạn", ta từ chối, chúng lại tìm cách đột nhập nhà lao bằng cổng sau nhưng
lại bị ngăn chặn. Chính phủ Trung ương chỉ thị đưa ngay nhóm bị bắt ra Hà Nội. Vì xe
chật nên Nguyễn Tiến Lãng bị bỏ lại. Biết tin, hiến binh Nhật cho xe đuổi theo. Đến
Hiền Sĩ chúng đuổi gần kịp. Tổ áp giải bất ngờ cho xe rẽ vào rừng. Bọn Nhật mất mục
tiêu, rất tức tối, chúng bắn chết hai người ăn xin đang nấu cơm ở chợ rồi quay về Huế.
Gần đây, cuốn Trường Thanh niên tiền tuyến Huế - 1945 đã cung cấp hồi ức của
nhiều nhân chứng về các sự kiện xẩy ra ở Huế, trước và sau Tổng khởi nghĩa, nhưng để
hiểu cụ thể hơn, tôi đã tìm gặp ông Đặng Văn Việt, Trưởng Ban liên lạc cựu học sinh
trường Thanh niên tiền tuyến Huế - 1945. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông nhưng có cảm
tưởng như gặp lại một người quen cũ. Ông xuất thân từ một gia đình nổi tiếng của huyện
Diễn Châu, cạnh huyện tôi, thuộc tỉnh Nghệ An. Ông nội của ông, đậu Hoàng giáp, từng
làm Tế tửu Quốc tử giám. Thân sinh của ông là Phó bảng Đặng Văn Hướng, ngay trước
Cách mạng là Tổng đốc tỉnh Nghệ An, sau Cách mạng được Hồ Chủ tịch mời làm Bộ
trưởng không bộ (1946-1952), phụ trách ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. Những năm 1950-
1951, trong các lớp học chính trị "rèn cán chỉnh cơ" ở Quân khu IV tôi đã được nghe tên
ông, một Trung đoàn trưởng kiệt xuất của Chiến dịch biên giới, chiến binh Pháp gọi ông
là con hùm xám đường số 4. Còn bây giờ, ngồi bệt xuống sàn nhà của một căn hộ nhỏ,
khiêm tốn, trong khu lao động Quỳnh Mai (Hà Nội), trước mặt tôi là một cựu chiến binh
đã gần 90 tuổi, nhưng thân hình vạm vỡ, nói chuyện linh hoạt, hóm hỉnh.
Ông giới thiệu với tôi về trường Thanh niên tiền tuyến. Chính phủ Trần Trọng
Kim thân Nhật không có bộ Quốc phòng mà chỉ có bộ Thanh niên. Bấy giờ Đại học
Đông Dương ở Hà Nội đóng cửa, nhiều sinh viên miền Trung rủ nhau về Huế. Đặng
Văn Việt, quê ở Nghệ An nhưng là cựu học sinh trường Khải Định nên cũng vui bầu vui
bạn về Huế. Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng bộ Thanh niên và Giáo sư Tạ Quang Bửu,
lãnh đạo tổ chức Hướng đạo sinh, Đặc uỷ viên của Bộ Thanh niên, liền tổ chức Trường
Thanh niên tiền tuyến, gồm 43 học viên. Ban đầu trong số này đã có 5 người gia nhập
Việt Minh, dần dần tất cả đều "Việt Minh hoá" và trở thành một lực lượng tự vệ vũ trang
của Uỷ ban Khởi nghĩa ở Huế. Đặng Văn Việt nói: "Thanh niên tiền tuyến như một con
dao pha được huy động ở mọi nơi cần thiết". Ngày 23-8-1945, Đặng Văn Việt và Cao
Pha được phái đi bắt cha con Ngô Đình Khôi – Ngô Đình Huân. Phan Hàm và Võ
Quang Hồ đi bắt Phạm Quỳnh và Nguyễn Tiến Lãng.
Trong hồi ức Những ngày giành chính quyền ở Huế, Phan Hàm, về sau là Thiếu
tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, mất năm 2004, đã kể lại việc đi bắt Phạm Quỳnh
như sau: "Chúng tôi đi một chiếc Jeep, vào ngay giữa sân, gặp Nguyễn Tiến Lãng bước
ra. Ông Lãng đoán biết, bỏ chạy. Tôi bắn theo một phát, súng không nổ, thật hú vía cho
cả người bắn và người bị bắn. Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ "(12).
Bà Phạm Thị Hoàn, người chứng kiến, cũng đã kể lại vụ việc này(13).
Gần đây tôi đã hai lần đến gặp ông Hoàng Ngọc Diêu tại nhà riêng của ông ở Hà
Nội. Lần đầu đến cùng ông Đặng Minh Phương. Năm nay ông Diêu 83 tuổi. Năm 1986
ông được phong hàm Trung tướng, làm Tổng cục trưởng Hàng không dân dụng
Việt Nam, về hưu năm 1990. Năm 1945, khi xe của nhóm Phạm Quỳnh bị kẹt lại ở Hiền
Sĩ thì ông đang công tác tại đây, làm Uỷ viên Chấp hành Việt Minh kiêm Bí thư Thanh
niên cứu quốc huyện Phong Điền. Lúc đầu nhóm Phạm Quỳnh bị giam ở Lò Tràm đang
bỏ hoang (tức một xưởng ép lá tràm lấy dầu)(14). Khi có toán sĩ quan Pháp nhảy dù
xuống Hiền Sĩ thì tỉnh chỉ thị "di chuyển ngay nhóm bị bắt". Sau đó ông Diêu được điều
về Huế làm Đội trưởng một đội cảm tử, nên không biết những việc cuối cùng xẩy ra ở
Hiền Sĩ với nhóm bị bắt trong bối cảnh tình hình giữa ta và Pháp ngày càng căng thẳng,
nhưng ông có được xem phiên toà xử Nguyễn Tiến Lãng ở Đại Nội, Huế. Ông còn nhớ
Nguyễn Tiến Lãng đã tự bào chữa, đại ý nói: nước mất tôi cũng đi tìm thuốc nhưng lại
gặp phải liều thuốc độc!
Về sau hai gia đình Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi có đơn khiếu nại. Uỷ ban
Cách mạng lâm thời đã trả lời: Những việc trước đây là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban
Khởi nghĩa, sau đó có cho công bố một văn bản trên báo Quyết Thắng của Việt Minh
Trung bộ, do Lê Chưởng làm Chủ nhiệm.
Tôi đã đưa bản thông báo của Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương (tức
Thừa Thiên) gửi Tòa án quân sự Thuận Hoá (tức Huế), đã đăng trên báo Quyết
Thắng tháng 12-1945 mà Nhật Hoa Khanh sưu tầm được cho ông Diêu đọc(15). Ở tuổi
83, không cần đeo kính, ông vẫn đọc được rất nhanh rồi gật đầu bảo tôi: Đúng văn bản
này! Thông báo đó đánh giá tổng quát tội trạng của Phạm Quỳnh như sau: "Phạm
Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải
điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng
Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên
một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Namtriều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực
Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của
giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9-3-1945, nhiều triệu chứng chứng tỏ rằng
Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta".
Bản thông báo cho biết: "Cả ba tên Việt gian đại bợm (chỉ Phạm Quỳnh, Ngô
Đình Khôi, Ngô Đình Huân - N.V.H chú) đã bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền
(2 giờ ngày 23-8-1945) ở Thuận Hoá và đã bị Uỷ ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã
thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật".
Xin nói thêm về Nguyễn Tiến Lãng, bị kết án 8 năm tù, sau được giảm án và được
Thiếu tướng Nguyễn Sơn, Khu trưởng Khu IV bảo lãnh, đưa về làm công việc sửa bản
in thử cho tờ báo địch vận bằng tiếng Pháp của Liên khu tại một xưởng in, đặt trong
chiến khu Như Xuân (Thanh Hoá), về sau được điều về dạy tiếng Pháp, rồi làm Trưởng
ban Giáo dục của trường Thiếu sinh quân Liên khu IV.
Cùng thời gian này, từ 1949 đến 1951, tôi học Trung học chuyên khoa rồi ở lại
làm cán bộ của trường Thiếu sinh quân. Trong không khí đoàn kết, cởi mở của trường
hồi đó Nguyễn Tiến Lãng không hề bị phân biệt đối xử. Về phần ông, tận tâm với học
sinh, cố gắng chịu đựng gian khổ, luôn giữ quan hệ tốt với nhân dân nơi đóng quân. Học
sinh Thiếu sinh quân có nhiều cảm tình với “Thầy Lãng”.
Trong thời gian này tôi hay trò chuyện, trao đổi ý kiến với ông, từ vụ ông bị bắt ở
Huế đến Tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh. Có vài ý kiến ông nói hồi đó, tôi không
hiểu rõ lắm nhưng cũng không tiện hỏi thêm, chẳng hạn, theo ông, Phạm Quỳnh là một
người rất kín đáo và khó hiểu, ông thú nhận là không thể hiểu nổi Phạm Quỳnh; thứ hai
trong chuyến xe đi Hà Nội, sở dĩ ông bị bỏ lại vì ông là người ít quan trọng nhất!.
Hồi đó tôi đã nghĩ: So với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi thì đúng là Nguyễn
Tiến Lãng ít quan trọng hơn, nhưng so với Ngô Đình Huân thì tại sao một người đã kế
tục Phạm Quỳnh làm Chủ bút Nam Phong, đã làm quan Thừa Thiên Phủ doãn như
Nguyễn Tiến Lãng lại ít quan trọng hơn?
Về sau đọc các sách báo, chẳng hạn cuốn Con Rồng Việt Nam của Bảo Đại(16) tôi
mới biết đích xác Ngô Đình Huân hồi đó là bí thư của Đại sứ Nhật bản Yokohama tại
Đông Dương.
Trong thời gian ở trường Thiếu sinh quân, Nguyễn Tiến Lãng đã được về phép,
thăm quê (Vân Đình, Hà Đông) hai lần. Lần thứ nhất vào hè 1950, ông đi đến nơi về đến
chốn và còn mua làm quà tặng cho học sinh một bản nhạc trữ tình lành mạnh mà đến
nay một số Thiếu sinh quân đã lên tuổi 70 vẫn còn nhớ và hát lại được. Lần thứ hai về
phép vào hè 1951, ông đã "dinh tê" vào Hà Nội, rồi sang Pháp và mất ở Paris năm 1976.
Xin có vài lời kết thúc: Tháng 7 năm 2008 tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm lần thứ
130 ngày sinh nhà Chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Tôi có bản tham luận Nhà Chí Sĩ Ngô
Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo(17). Đề cập đến Ngô Đức Kế, Chủ bút
Tạp chí Hữu Thanh, tôi không thể không nói đến Phạm Quỳnh, Chủ bút Tạp chí Nam
Phong, trong "vụ đụng độ" về Truyện Kiều năm 1924, từ đó tôi không thể không khẳng
định "ngòi bút Đổng Hồ" của Ngô Đức Kế là ở phía chính nghĩa dân tộc, còn ngòi bút
của Phạm Quỳnh là ở phía ngược lại. Một bạn đồng nghiệp, giáo sư Khoa Văn trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, sau khi đọc bản tham luận của tôi, đã hỏi:
- Nếu như năm 1945, chiếc xe chở Phạm Quỳnh ra Hà Nội được trót lọt, rồi ông
sẽ cộng tác với Chính phủ Cụ Hồ như cựu đồng liêu Bùi Bằng Đoàn của ông thì đến nay
chúng ta nói về ông có khác không?
Thảo luận lịch sử trên cơ sở chữ nếu thì thật là thiếu căn cứ, đối với lịch sử thì tốt
hơn là hãy tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế! Cách mạng đã chìa tay ra
với Bảo Đại, Nguyễn Tường Tam, Ngô Đình Diệm... nhưng rút cục họ có đi với Cách
mạng đâu! Dù sao câu hỏi trên vẫn làm tôi nhớ lại câu chuyện sau đây: Một hôm Hồ
Chủ tịch đã hỏi một nhà báo: “- Này, sao cứ mỗi lần kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thì
báo, đài lại đưa "Cụ Phan" ra mà réo?”. Nhà báo của chúng ta hơi ngớ ra, vì trong trí
nhớ thường trực của ông thì chỉ có hai "Cụ Phan", đó là Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh. Nhưng Hồ Chủ tịch đã nói tiếp: "- Cụ Phan nay đã ở trong Chính phủ, trong Mặt
trận Tổ quốc, có đóng góp rất quý. Các chú phải bảo nhau viết lách sao cho có lý, có
tình!"
Thì ra Hồ Chủ tịch nói về Phó Thủ tướng Phan Kế Toại(18).
Tôi có đọc được ở đâu đó một câu cách ngôn - hình như của La Mã - đại ý khuyên
rằng: đối với người đã khuất thì tốt nhất là đừng đụng chạm đến, nếu bất đắc dĩ phải nói
đến thì tốt nhất chỉ nên ca ngợi. Tinh thần câu cách ngôn này cũng gần gũi với câu tục
ngữ quen thuộc của nhân dân ta: "Nghĩa tử là nghĩa tận". Tôi tiếp nhận hàm nghĩa của
hai lời khuyên này - theo nghĩa rộng - là khi nói về người đã chết thì phải hết sức thận
trọng, phải hết sức khách quan và trung thực, không được vì một động cơ cá nhân
nào mà cố ý nói sai sự thật, dù theo hướng tô hồng hay bôi đen; hơn nữa, cần nhớ rằng:
trong lĩnh vực lịch sử và khoa học xã hội nói chung, dù có thiện chí, cũng rất khó nắm
bắt được chân lý chính xác trăm phần trăm. Trên tinh thần đó tôi thành thật mong nhận
được sự giám định và bổ sung tư liệu của đông đảo bạn đọc