Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (tiếng Anh: United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland, tên gọi ngắn là United Kingdom, viết tắt là UK) là một quốc gia nằm ở phía tây bắc châu Âu. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland bao gồm 4 phần chính là Anh (England), Scotland, Wales và Bắc Ireland. Ngoài ra Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland còn bao gồm một số hòn đảo và quần đảo khác tại nhiều nơi trên thế giới. Vương quốc này có chung đường biên giới với Cộng hòa Ireland. Theo số liệu tháng 7 năm 2007, dân số của vương quốc là 60.776.238 người, mật độ dân số khoảng 246 người/km².
Phần lớn địa hình Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là những vùng đất thấp xen kẽ với núi non. Do nằm ở vĩ độ trung bình và chịu ảnh hưởng của hải lưu Gulf Stream, vương quốc có một khí hậu khá ôn hòa và lượng mưa tương đối lớn. Tại nước này thường hay xảy ra bão tuyết và lũ lụt.
15 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 4050 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống chính trị Anh và bắc Ireland, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ANH VÀ BẮC IRELAND
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (tiếng Anh: United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland, tên gọi ngắn là United Kingdom, viết tắt là UK) là một quốc gia nằm ở phía tây bắc châu Âu. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland bao gồm 4 phần chính là Anh (England), Scotland, Wales và Bắc Ireland. Ngoài ra Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland còn bao gồm một số hòn đảo và quần đảo khác tại nhiều nơi trên thế giới. Vương quốc này có chung đường biên giới với Cộng hòa Ireland. Theo số liệu tháng 7 năm 2007, dân số của vương quốc là 60.776.238 người, mật độ dân số khoảng 246 người/km².
Phần lớn địa hình Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là những vùng đất thấp xen kẽ với núi non. Do nằm ở vĩ độ trung bình và chịu ảnh hưởng của hải lưu Gulf Stream, vương quốc có một khí hậu khá ôn hòa và lượng mưa tương đối lớn. Tại nước này thường hay xảy ra bão tuyết và lũ lụt.
Lịch sử
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland hiện tại là liên minh sau chót của hàng loạt những liên minh từng được thành lập trong vòng 300 năm qua. Vương quốc Scotland và Vương quốc Anh từng tồn tại với tư cách các quốc gia độc lập với hoàng gia và các cơ cấu chính trị riêng biệt từ thế kỷ thứ 9. Xứ Wales cũng từng một thời là lãnh thổ độc lập đã rơi vào tầm kiểm soát của hoàng gia Anh từ sau Đạo luật Rhuddlan năm 1284, và chính nó cũng trở thành một phần của Vương quốc Anh theo các điều luật trong Đạo luật Wales 1535. Theo Đạo luật liên minh 1707, các nước Anh và Scotland, vốn từng là các quốc gia liên minh riêng biệt từ năm 1603, đã đồng ý thành lập một liên minh chính trị gọi là Vương quốc Anh (Kingdom of Great Britain).
Đạo luật liên minh 1800 đã thống nhất Vương quốc Anh với Vương quốc Ireland, nước này đã dần rơi vào vòng kiểm soát của Anh từ giai đoạn 1541 - 1691, để hình thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Nước Cộng hòa Ireland hiện nay tuyên bố độc lập năm 1922 sau khi tách khỏi hòn đảo Ireland từ hai năm trước đó, sáu trong số chín hạt của tỉnh Ulster vẫn nằm trong Vương quốc Anh, sau này đã đổi thành tên hiện nay năm 1927.
Là một cường quốc công nghiệp và hàng hải trong thế kỷ 19, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland thường được gắn liền với danh hiệu quốc gia góp phần "hình thành lên thế giới hiện đại", khi đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc phát triển các tư tưởng về sở hữu, chủ nghĩa tư bản và dân chủ nghị viện phương Tây cũng như có những đóng góp to lớn trong văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ. Ở thời cực thịnh, Đế quốc Anh trải dài trên hơn một phần tư bề mặt Trái Đất và chiếm một phần ba dân số thế giới, biến nó trở thành đế chế lớn nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, nửa đầu thế kỷ 20, sức mạnh của nó dần suy giảm sau những hậu quả của Thế chiến thứ nhất và thứ hai. Nửa sau thế kỷ 20, đế quốc này tan rã và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã tái lập lại hình ảnh quốc gia thịnh vượng và kinh tế phát triển của mình hiện nay.
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã trở thành một thành viên Liên minh Châu Âu từ năm 1973. Thái độ của chính phủ hiện tại về việc hội nhập sâu thêm vào tổ chức này hiện không thống nhất, khi Đảng Bảo thủ ủng hộ việc thu hồi một số quyền lực lại cho quốc gia. Chính phủ Anh cũng chưa quyết định việc sử dụng đồng tiên chung euro. Kế hoạch tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề này chỉ được thực hiện nếu và khi thử nghiệm ở năm nền kinh tế cho thấy việc gia nhập Khu vực đồng Euro mang lại hiệu quả.
Chính phủ và chính trị
Nữ hoàng Anh Elizabeth II
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland theo chế độ quân chủ lập hiến, quyền hành pháp do Thủ tướng và các bộ trưởng nội các đứng đầu các bộ đảm nhận nhân danh Hoàng gia. Nội các, gồm thủ tướng và các bộ trưởng tạo thành Chính phủ của Nữ hoàng. Các bộ trưởng là thành viên Nghị viện và chịu trách nhiệm trước cơ quan này, cơ quan lập pháp, theo truyền thống được coi là cơ quan quyền lực "tối cao" (có nghĩa là có khả năng phán xét mọi vấn đề pháp luật và không bị hạn chế quyền lực theo những quyết định của các cơ quan tiền nhiệm). Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là một trong số ít quốc gia trên thế giới hiện nay không có một hiến pháp đã được hệ thống hoá, thay vào đó họ sử dụng các luật lệ truyền thống và các đoạn luật hiến pháp rời rạc.
Tuy người đứng đầu hoàng gia vẫn là nguyên thủ quốc gia và trên lý thuyết nắm mọi quyền hành pháp, nhưng chính thủ tướng là lãnh đạo chính phủ. Chính phủ chịu trách nhiệm chính trước Hạ viện, và theo quy định của thỏa ước hiến pháp, cơ quan này có trách nhiệm bầu ra thủ tướng. Đa số các thành viên nội các thuộc Hạ viện, số còn lại thuộc Thượng viện. Tuy nhiên, các bộ trưởng không bắt buộc phải là thành viên Nghị viện, dù theo tục lệ hiện nay các bộ trưởng đều là thành viên Nghị viện. Hệ thống chính phủ Anh được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới - một di sản từ thời quá khứ thực dân — chủ yếu tại các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung Anh. Thành viên Nghị viện (Member of Parliement) chiếm đa số trong Hạ viện thường là phái có quyền chỉ định thủ tướng - thường là lãnh đạo của đảng lớn nhất hay, nếu không có đảng nào chiếm đa số, là liên minh lớn nhất. Thủ tướng hiện nay là David Cameron, thành viên của Đảng Lao động, đã lên nắm quyền vào ngày 11 tháng 5 năm 2010.
Tại Anh, hoàng gia trên lý thuyết nắm nhiều quyền lực rộng rãi, nhưng vai trò chính thức của Vua/Nữ hoàng, chủ yếu chỉ là về mặt nghi lễ. Hoàng gia là một phần không thể tách rời của Nghị viện (như "Crown-in-Parliament") và trên lý thuyết trao cho Nghị viện quyền nhóm họp và soạn thảo luật. Một Điều luật Nghị viện không thể trở thành luật cho tới khi nó được hoàng gia ký phê chuẩn (được gọi là Phê chuẩn của Hoàng gia), dù không một điều luật nào của Nghị viện từng bị hoàng gia bác bỏ từ thời Nữ hoàng Anne năm 1708. Dù đã có ý kiến về việc bãi bỏ hoàng gia, uy tín của họ trong lòng dân chúng Anh vẫn còn rất lớn. Số người ủng hộ một Nhà nước Anh cộng hoà thường thay đổi trong khoảng 15% tới 25% dân số, với khoảng 10% chưa quyết định hay không quan tâm. Người đứng đầu hoàng gia hiện là Nữ hoàng Elizabeth II; bà lên kế vị ngôi năm 1952 và chính thức trở thành Nữ hoàng năm 1953 (hiện là người trị vì lâu nhất trong lịch sử Vương Quốc Anh).
Nghị viện là cơ quan lập pháp của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Đây là cơ quan lập pháp duy nhất của Vương quốc, theo học thuyết chủ quyền tối cao nghị viện (tuy nhiên, những câu hỏi về vấn đề chủ quyền tối cao cũng đã được đặt ra vì vấn đề gia nhập Liên minh Châu Âu]). Nghị viện Anh theo chế độ lưỡng viện, gồm Hạ viện do bầu cử và Thượng viện, với đa số thành viên được chỉ định. Hạ viện có quyền lực cao hơn. 646 thành viên Hạ viện (con số này không có định, được xem xét và thay đổi theo khoảng 8 đến 10 năm, trong đợt tuyển cử 2010, có 650 người được bầu vào hạ viện) được bầu cử trực tiếp từ những khu vực bầu cử với chỉ duy nhất một người được trúng cử. Khu vực bầu cử được quy định theo số dân. Thượng viện có 724 thành viên (dù con số này không cố định), gồm những quý tộc thừa kế (Ghi chú: Đạo luật Thượng viện 1999 đã bãi bỏ quyền thừa kế quý tộc và chỉ cho phép giữ lại 92 ghế như vậy), quý tộc trọn đời và các giám mục của Nhà thờ Anh. Nhà thờ Anh là nhà thờ tại Anh và đã được nhà nước công nhận.
Cung điện Westminster, trên bờ sông Thames, Luân Đôn, là trụ sở Nghị viện Anh
Từ thập niên 1920, hai đảng chính trị lớn nhất tại Anh là Đảng Lao động (Labour), theo xu hướng dân chủ xã hội), và Đảng Bảo thủ (Conservative), theo chủ nghĩa bảo thủ. Dù các chính phủ liên minh và chính phủ thiểu số thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong thời gian ngắn, hệ thống bầu cử đa số được áp dụng cho những cuộc tổng tuyển cử có khuynh hướng duy trì sự thống trị chính trị của hai đảng đó, dù trong thế kỷ vừa qua mỗi đảng đều từng có lúc phải dựa vào một phe phái thứ ba nhằm chiếm đa số trong Nghị viện. Đảng Dân chủ Tự do (Liberal Democrat) là đảng lớn thứ ba tại Nghị viện Anh và đang nỗ lực kêu gọi cải cách hệ thống bầu cử nhằm lật đổ sự thống trị của hai đảng kia.
Dù nhiều người ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tự coi mình là "British" cũng như "English", "Scottish" "Welsh" hay "Irish" (và ngày càng có nhiều người khác tự coi mình là "Afro-Caribbean", "Indian" hay "Pakistani"), thì từ lâu cũng đã xuất hiện tư tưởng chia rẽ quốc tịch tại Scotland và xứ Wales cũng như bên trong cộng đồng Cơ đốc giáo ở Bắc Ireland. Nền độc lập cho Cộng hoà Ireland năm 1922 là giải pháp một phần duy nhất cho cái đã từng được goi là "Irish Question" trong thế kỷ 19, và những ý kiến trái chiều về việc thống nhất Ireland hay tiếp tục ở lại bên trong Vương quốc đã gây ra những xung đột dân sự và chính trị cũng như sự bất ổn cho tới tận ngày nay.
Dù những khuynh hướng quốc gia (đối lập với liên minh) đã ngày càng tăng ở Scotland và xứ Wales, với việc thành lập Đảng Quốc gia Scotland năm 1934 và Plaid Cymru (Đảng Wales) năm 1925, một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng đang đe dọa sự toàn vẹn với tư cách một nhà nước của Vương quốc chỉ thực sự xuất hiện từ thập niên 1970. Scotland, Wales và Bắc Ireland đều có cơ quan lập pháp và chính phủ của riêng mình bên cạnh cơ quan lập pháp và chính phủ Vương quốc. Tuy nhiên, giải pháp trao thêm quyền tự trị và gia tăng quyền lực lập pháp cũng như hành pháp không ngăn chặn được đà ủng hộ độc lập khỏi Vương quốc, với bằng chứng là sự xuất hiện của những đảng ủng hộ độc lập mới. Ví dụ, Đảng Xanh Scotand và Đảng Xã hội Scotland đã giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng trong những năm gần đây.
Toà nhà Nghị viện tại Stormont, Belfast, trụ sở Quốc hội Bắc Ireland
Hiện đang có mong muốn về Nghị viện ủy thác Anh, dù hai đảng chính trị chính là Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động đã lên tiếng lo ngại về Vấn đề Tây Lothian. Những đề xuất về việc thành lập chính phủ vùng tại nước Anh cũng không mang lại hiệu quả sau khi nó nhận được quá ít ý kiến tán thành tại cuộc trưng cầu dân ý về chính phủ ủy thác cho vùng Đông bắc Anh Quốc, nơi cho đến nay được coi là vùng thích hợp nhất cho ý tưởng đó. Vì thế Anh được cai trị theo sự cân bằng quyền lực giữa các đảng trên toàn bộ Vương quốc.
Sự hồi sinh của ngôn ngữ và bản sắc Celt cũng như sự phát triển của chính trị vùng đã góp phần đe dọa sự thống nhất quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay có ít dấu hiệu về bất cứ một cuộc "khủng hoảng" cận kề nào (tại cuộc Tổng tuyển cử vừa qua, cả Đảng Quốc gia Scotand và Plaid Cymru đều có số lượng phiếu ủng hộ giảm sút, dù SNP một lần nữa lại chiếm thêm hai ghế và hiện là đảng lớn thứ hai trong Nghị viện Scotand và trở thành phe đối lập chính thức). Tuy thế, nhiều người Scotland mong muốn độc lập dù đa số người Anh không muốn như vậy. Tại Bắc Ireland, trong hai mươi năm qua đã có sự giảm sút đáng kể các vụ bạo lực, dù tình hình vẫn còn căng thẳng, với việc các đảng chính trị cứng rắn như Sinn Féin và Liên đoàn Dân chủ, hiện đang nắm đa số ghế trong nghị viện (xem Nhân khẩu và Chính trị Bắc Ireland).
Luật pháp
Vương quốc này hiện có ba hệ thống luật riêng biệt. Luật Anh, được áp dụng tại Anh và xứ Wales; luật Bắc Ireland áp dụng tại Bắc Ireland, dựa trên những nguyên tắc của thông luật (common law). Luật Scotland là sự kết hợp giữa những nguyên tắc của dân luật (civil law) và thông luật, áp dụng tại Scotland. Các sắc luật liên hiệp năm 1707 bảo đảm sự tồn tại của các hệ thống luật riêng biệt đối với Scotland.
Hội đồng Kháng cáo (Appelate Committee) của Thượng viện là tòa án tối cao trong lãnh thổ đối với mọi vụ kiện hình sự và dân sự tại Anh, xứ Wales và Bắc Ireland, và với mọi vụ kiện dân sự theo luật pháp Scotland. Những thay đổi hiến pháp gần đây đang hướng theo việc chuyển quyền lực này từ Thượng viện cho một Tòa án Tối cao Vương quốc Anh.
Tại Anh và xứ Wales, hệ thống tòa án do Tòa án Tối cao của Bộ máy tư pháp Anh và xứ Wales lãnh đạo, gồm Tòa Phúc thẩm, Tòa án Tối cao (cho các vụ dân sự) và Tòa án Hoàng gia (cho các vụ hình sự). Tại Scotland, các tòa án cấp cao là Tòa Hình sự (Court of Sessions) cho các vụ dân sự và Tòa án Tối cao cho các vụ hình sự, trong khi tòa án cấp huyện (sheriff court) là tòa án tương đương cấp tỉnh hạt của Scotland.
Ủy ban Tòa án của Hội đồng Cơ mật là tòa án phúc thẩm cấp cao nhất đối với nhiều nước độc lập trong Khối thịnh vượng chung Anh, các lãnh thổ hải ngoại và các quốc gia lệ thuộc.
Chính trị Anh
Chính trị Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland lập nền trên thể chế quân chủ lập hiến với thủ tướng đảm nhiệm vị trí đứng đầu chính phủ. Đây là hệ thống chính trị đa nguyên với sự ủy thác một phần quyền lực cho xứ Scotland, xứ Wales và Bắc Ireland. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Quyền lập pháp được trao cho cả chính phủ và lưỡng viện Quốc hội: Viện Thứ dân (Hạ viện) và Viện Quý tộc (Thượng viện). Nhánh tư pháp độc lập với hai nhánh còn lại - hành pháp và lập pháp. Cơ cấu chính quyền này (còn gọi là Hệ thống Westminster) được áp dụng tại các nước khác như Canada, Ấn Độ, Úc, New Zealand, Singapore, Malaysia và Jamaica, là những quốc gia thuộc Đế quốc Anh.
Hiến pháp Anh là hiến pháp bất thành văn, cấu thành bởi các qui ước, luật lệ cùng những nhân tố khác.
Hệ thống chính quyền này, thường được gọi là Mô hình Westminster, cũng được áp dụng tại các quốc gia khác như Canada, Ấn Độ, Úc, New Zealand, Singapore, Malaysia, và Jamaica. Đây là những quốc gia từng thuộc Đế quốc Anh.
Vương quyền
Nguyên thủ quốc gia, trên lý thuyết cũng như trên danh nghĩa nắm quyền lực hành pháp, tư pháp và lập pháp, là Vương quyền Anh, hiện nay là Nữ hoàng Elizabeth II. Song, kể từ năm 1689 khi ban hành Đạo luật Declaration of Rights, quyền lực tối thượng này không còn thuộc về vua Anh, mặc dù nhà vua vẫn được công nhận là nguyên thủ quốc gia.
Dù vây, vương triều Anh vẫn duy trì nhiều quyền lực, trong đó có quyền chọn một công dân Anh bất kỳ để bổ nhiệm vào chức vụ Thủ tướng, quyền triệu tập và giải tán Quốc hội bất cứ lúc nào nhà vua muốn. Trong thực tế, Thủ tướng là lãnh tụ phe đa số ở Viện Thứ dân, và Quốc hội chỉ bị giải tán theo đề nghị của thủ tướng, điều này cũng phù hợp với hiến pháp bất thành văn hiện hành. Dù Nữ hoàng vẫn còn giữ quyền từ chối chuẩn thuận dự luật, quyền ấy ngày càng bất khả thi vì có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng hiến pháp. Nữ hoàng Anne là vị vua cuối cùng hành xử quyền này, đó là vào ngày 11 tháng 3 năm 1780, khi nữ hoàng từ chối phê chuẩn dự luật “for the setling of Militia in Scotland.” Thủ tướng và nội các hành xử một số quyền khác của hoàng gia như bổ nhiệm bộ trưởng và tuyên chiến, với sự phê chuẩn của Nữ hoàng.
Ngày nay, vương quyền chỉ còn thủ giữ vai trò nghi lễ, dù vẫn còn duy trì ba quyền căn bản: quyền được tư vấn, quyền tư vấn và quyền cảnh cáo. Do đó, Thủ tướng vẫn phải có các phiên họp mật hằng tuần để nghe Nữ hoàng bày tỏ quan điểm của mình.
Chính thức thì nhà vua lãnh đạo Quốc hội, nhưng trong thực tế Thủ tướng là người đứng đầu nền chính trị Anh (thủ tướng đương nhiệm là Gordon Brown – từ ngày 27 tháng 6 năm 2007). Tuy nhiên, nữ hoàng vẫn duy trì một số quyền lực được sử dụng với sự cân nhắc cẩn thận. Bà chu toàn các chức trách hiến định trong cương vị nguyên thủ quốc gia. Khi nền chính trị thiếu vắng sự phân biệt rạch ròi giữa các quyền như nguyên tắc tam quyền phân lập được áp dụng tại Hoa Kỳ, thì vương quyền được xem là sự kiểm soát tối hậu đối với quyền hành pháp. Nữ hoàng có thể từ chối phê chuẩn các đạo luật đe dọa quyền tự do hoặc sự an toàn của công dân. Ngoài ra, nữ hoàng còn là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, và các lực lượng này phải tuyên thệ trung thành với nữ hoàng.
Các chính đảng
Lịch sử
Các đảng chính trị bắt đầu xuất hiện tại Anh từ năm 1662 sau khi cuộc Nội chiến Anh kết thúc với sự ra đời của Đảng Cung đình (Court Party) và Đảng Nông thôn (Country Party), sau này trở thành Đảng Tory (nay là đảng Bảo thủ, mặc dù vẫn thường được gọi là “Tory”) và Đảng Whig (nay là đảng Dân chủ Tự do). Hai chính đảng này vẫn duy trì vị thế chính trị quan trọng trong cho đến thế kỷ 20.
Tên gọi của hai đảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng Dự luật Khai trừ trong những năm 1678-1681 – đảng Whig ủng hộ việc khai trừ Công tước xứ York theo đức tin Công giáo khỏi quyền kế thừa ngai vàng của xứ Anh, Ái Nhĩ Lan và xứ Tô Cách Lan, trong khi đảng Tory chống lại chủ trương khai trừ này. Cả hai tên gọi được dùng để biểu thị sự khinh miệt: “whiggamor” là “đồ chăn bò” (cattle driver) và “tory” trong tiếng Ái Nhĩ Lan nghĩa là “đồ vô lại” (an outlaw).
Đại thể, đảng Tory có quan hệ với giới thượng lưu và Giáo hội Anh, trong khi đảng Whig gần gũi hơn với giới nghiệp đoàn, tài chính và chủ đất.
Đảng Cấp tiến Rochdale qui tụ những người theo đuổi khuynh hướng cải cách triệt để, hoạt động tích cực cho phong trào hợp tác xã. Họ chủ trương xây dựng một xã hội bình đẳng hơn. Đảng này nên được xếp vào cánh tả nếu xét theo tiêu chuẩn đương đại.
Sau năm 1815, đảng Tory trải qua một cuộc cải tổ sâu sắc dưới ảnh hưởng của Robert Peel, một nhà công nghiệp, trong năm 1834 với bản Tuyên ngôn Tamworth, Peel phác thảo triết lý “Bảo thủ” chủ trương cải cách những tệ nạn trong khi vẫn bảo tồn những tập quán tốt.
Năm 1846, do bất đồng về vấn đề tự do thương mại, một số người ủng hộ Peel tách khỏi đảng Tory để gia nhập đảng Whig và kết hợp với đảng Cấp tiến để thành lập Đảng Tự do, trong khi chủ trương của Peel vẫn được duy trì trong đảng Tory, từ đó đảng này chính thức chấp nhận danh xưng Bảo thủ.
Mặc dù đã được sử dụng trong những thập niên trước đó, tên “Đảng Tự do” trở nên danh xưng chính thức trong năm 1868. Năm 1870 Đảng Tự do thành lập chính phủ, từ đó cùng với Đảng Bảo thủ luân phiên cầm quyền suốt từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
Năm 1882, Đảng Đại nghị Ái Nhĩ Lan được thành lập để thế chỗ của Liên minh Cầm quyền Nội địa. Mãi đến năm 1918 đảng này vẫn là chính đảng lớn thứ ba trong chính trường Anh quốc, thường thủ giữ vị trí cân bằng lực lượng.
Năm 1900, Ủy ban Đại diện Lao động ra đời, đến năm 1906 đổi tên thành Đảng Lao động. Sau Đệ Nhất Thế chiến, đảng Lao động được xem là động lực cải cách chính tại Anh. Sự hiện diện của Đảng Lao động ở phe tả của chính trường Anh Quốc dần dà làm suy yếu Đảng Tự do để cuối cùng đẩy đảng này xuống vị trí thứ ba trong nền chính trị quốc gia. Sau những kết quả nghèo nàn trong các cuộc tuyển cử năm 1922, 1923 và 1924, đảng Tự do đã bị thế chỗ bởi Đảng Lao động trong vị trí của một chính đảng cánh tả.
Theo sau hai giai đoạn ngắn thành lập chính phủ thiểu số trong năm 1924 và 1929-1931, đảng Lao động có được chiến thắng đầu tiên sau Đệ Nhị Thế chiến trong cuộc bầu cử năm 1945. Trong những năm còn lại của thế kỷ 20, đảng Lao động cùng với đảng Bảo thủ luân phiên thành lập chính phủ. Phần lớn thời gian cầm quyền thuộc về Đảng Bảo thủ trong khi Đảng Lao động chịu đựng “thời kỳ hoạn nạn” trong những năm 1951-1964 (thất bại trong ba kỳ tổng tuyển cử liên tiếp) và năm 1979-1997 (thất bại trong bốn kỳ tổng tuyển cử liên tiếp).
Năm 1975, Margaret Thatcher, một chính trị gia hữu khuynh, nắm quyền lãnh đạo Đảng Bảo Thủ và bắt tay tiến hành những cải cách cơ bản trong chính sách của đảng hướng theo chủ trương tân tự do. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1979, Thatcher đánh bại chính phủ đảng Lao động của James Callaghan đang gặp khó khăn sau những cuộc đình công lan rộng đòi tăng lương khởi xướng bởi các nghiệp đoàn trong “mùa đông bất bình” năm 1978-79.
Trong thập niên 1980 và 1990, dưới sự lãnh đạo của người kế nhiệm John Major, chính phủ Bảo thủ theo đuổi chính sách tư hữu hóa, đối kháng nghiệp đoàn và tiền tệ, được gọi chung là chủ thuyết Thatcher.
Đảng Lao động bầu một nhân vật khuynh hữu, Michael Foot, vào vị trí lãnh tụ đảng sau thất bại trong cuộc tuyển cử năm 1979. Nhằm giải quyết những bất bình trong nội bộ đảng, Foot theo đuổi các chính sách cấp tiến cổ xúy bởi các đảng viên ở hạ tầng cơ sở. Năm 1981, một số nghị sĩ cánh hữu thành lập một nhóm ly khai gọi là Đảng Dân chủ Xã hội (SDP); hành động gây phân hóa trong đảng Lao động và được xem là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của đảng trong suốt một thập niên. Đảng Dân chủ Xã hội thành lập liên minh với Đảng Tự do, trong các