Hiệu quả đầu tư công: Mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam

Tóm tắt Đầu tư công là đòn bẩy và là nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đầu tư từ các khu vực còn lại phát huy hiệu quả cao thông qua việc xây dựng kết cấu kinh tế - xã hội, xóa đói và giảm nghèo. Tuy nhiên, tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo cũng như hiệu quả của đầu tư công vẫn còn là vấn đề tranh luận. Trên cơ sở hàm đa biến được phác họa từ mô hình VECM (Vector Error Correction Model), bài viết này phân tích một cách tổng thể về thực trạng đầu tư công và hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam thông qua việc tính toán, phân tích một số chỉ tiêu hiệu quả đầu tư công và mức độ ảnh hưởng đến tăng trưởng và giảm nghèo, qua đó đề xuất một vài khuyến nghị hoàn thiện chính sách, nâng cao hiệu quả đầu tư công của Việt Nam trong thời gian tới.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả đầu tư công: Mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
89 NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG: MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG VÀ GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM PUBLIC INVESTMENT EFFICIENCY: GROWTH OBJECTIVES AND POVERTY REDUCTION IN VIETNAM Nguyễn Minh Tuấn, Phạm Thị Hồng Hoa Email: minhtuancnsd@yahoo.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 7/02/2018 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 20/9/2018 Ngày chấp nhận đăng: 28/9/2018 Tóm tắt Đầu tư công là đòn bẩy và là nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đầu tư từ các khu vực còn lại phát huy hiệu quả cao thông qua việc xây dựng kết cấu kinh tế - xã hội, xóa đói và giảm nghèo. Tuy nhiên, tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo cũng như hiệu quả của đầu tư công vẫn còn là vấn đề tranh luận. Trên cơ sở hàm đa biến được phác họa từ mô hình VECM (Vector Error Correction Model), bài viết này phân tích một cách tổng thể về thực trạng đầu tư công và hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam thông qua việc tính toán, phân tích một số chỉ tiêu hiệu quả đầu tư công và mức độ ảnh hưởng đến tăng trưởng và giảm nghèo, qua đó đề xuất một vài khuyến nghị hoàn thiện chính sách, nâng cao hiệu quả đầu tư công của Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: Đầu tư công; tăng trưởng; giảm nghèo. Abstract Public investment is the lever and the basis for socio-economic development, creating conditions for investment from the rest of the region to promote high efficiency through the construction of socio- economic infrastructure, poverty reduction. However, the impact of public investment on economic growth and poverty reduction as well as the effectiveness of investment remains a matter of debate. Based on the multivariate function sketched from the VECM model, this paper analyzes the overall public investment and the efficiency of public investment in Vietnam by analyzing and analyzing some indicators of public investment efficiency and the impact of growth and poverty reduction, it then proposed some recommendations to improve the policy and improve the efficiency of Vietnam’s public investment in the coming time. Keywords: Public investment; growth; poverty reduction. 1. GIỚI THIỆU Hiện nay, trong cả nghiên cứu lý thuyết lẫn thực nghiệm đều chưa có sự thống nhất về quan niệm hay khái niệm đầu tư công, hiện đang tồn tại một số quan niệm như: Quan niệm theo sở hữu vốn cho rằng, đầu tư công được coi là đầu tư của khu vực nhà nước hay mọi hoạt động sử dụng nguồn lực của Nhà nước để đầu tư. Theo quan điểm tài chính công, thì đầu tư công là hoạt động của chi tiêu công nhằm thúc đẩy năng lực sản xuất của nền kinh tế. Còn quan điểm theo thuyết vô vị lợi thì cho rằng, đầu tư công là đầu tư phát triển không vì mục tiêu lợi nhuận hay có tính phi lợi nhuận trong hoạt động đầu tư, Tuy nhiên, dù theo quan điểm nào thì hiệu quả của đầu tư công luôn được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kinh tế - xã hội (tăng trưởng và giảm nghèo của một quốc gia). Đây luôn là một vấn đề thu hút được sự quan tâm không chỉ của Chính phủ, chuyên gia kinh tế mà còn của toàn xã hội. Tại Việt Nam, hoạt động đầu tư công luôn được cho là kém hiệu quả do chất lượng lựa chọn dự án thấp, do chậm trễ trong việc thiết kế và hoàn thành dự án, do tham nhũng, do chi phí luôn tăng so với quyết định đầu tư ban đầu, và do rất nhiều dự án không hoàn thành. Hiệu quả đầu tư công thấp gây rất nhiều bức xúc cho người dân do nguồn vốn dành cho đầu tư công phần lớn là từ thuế của người dân trong khi hàng hóa, dịch vụ công không đáp ứng được nhu cầu của họ và phát triển của đất nước. Theo Ngân hàng Thế giới, 30% lợi ích tiềm năng của đầu tư công trên thế giới đã bị mất do hiệu quả đầu tư thấp, con số này ở các nước đang phát triển là 40%, ở các nước đang nổi lên là 27% và các nước phát triển khoảng 13%. Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Bất 2. PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh 90 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 Tại Việt Nam, đầu tư công được xem là hoạt động đầu tư của Nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và các nguồn vốn vay. Do vậy, có thể khẳng định đầu tư công có vai trò chủ đạo trong phát triển cơ sở hạ tầng, công ích và thực hiện các mục tiêu quốc gia cũng như giải quyết được tính phi lợi nhuận. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, đầu tư công được tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo. Nguồn lực tài trợ cho đầu tư công chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, vốn vay nước ngoài (ODA). Trong những năm gần đây, khi tỷ lệ đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng trên GDP ngày càng tăng thì hiệu quả đầu tư ngày càng giảm; tình trạng lãng phí, tham nhũng ngày càng phổ biến lên đến 20-30%. Việc chấp nhận chủ trương đầu tư cũng như ra quyết định đầu tư vẫn chủ yếu dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động vốn. Trong khi đó, các tiêu chuẩn về hiệu quả đầu tư công chưa được xem là yếu tố quyết định đối với quyết định đầu tư công và chưa quy định ràng buộc về mặt pháp lý một cách chặt chẽ. Cơ chế, chính sách, công cụ quản lý đầu tư tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, chậm được khắc phục. Cần phải xem xét đánh giá một cách khách quan để trả lời câu hỏi, liệu có phải đầu tư công thực sự kém hiệu quả ở tất cả lĩnh vực đầu tư (cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo) hay chỉ ở một số lĩnh vực? Thất thoát là một trong những tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của đầu tư công nhưng liệu xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế thì đầu tư công có tác động tích cực hay tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế và đây có phải là thời điểm để xác định vai trò của đầu tư khu vực tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư công, tái cơ cấu nợ công. 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã theo đuổi mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ khu vực nhà nước. Thực tế cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP tăng rất mạnh từ lúc nền kinh tế mở cửa đến nay trong khi tốc độ tăng trưởng chỉ dao động quanh mức 6÷8%. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh chủ yếu là do đầu tư công (chiếm tỷ trọng cao nhất) tăng rất mạnh, thế nhưng, điều đáng lưu ý là hiệu quả đầu tư công luôn thấp hơn hiệu quả đầu tư toàn nền kinh tế và các khu vực đầu tư còn lại khi đánh giá thông qua chỉ số ICOR. 2.1. Quy mô đầu tư công Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ đầu tư công cao, đầu tư vào cơ sở hạ tầng chiếm 8÷10% GDP, cao gấp hai lần so với các nước ASEAN và gấp ba lần so với nhiều nước phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư công của Việt Nam lại thấp hơn nhiều so với các nước khác. Với hệ số ICOR khoảng 5.2, nghĩa là Việt Nam phải đầu tư 5,2 đồng mới đạt được 1 đồng tăng trưởng, so với mức đầu tư 3÷4 đồng của các nước khác trong khu vực. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2016 tính theo giá thực tế đạt 1.485,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015. Năm 2017, đạt 1.666 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016. Cụ thể, vốn đầu tư khu vực nhà nước năm 2017 đạt 594.900 tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng 6,7% so với năm 2016, khu vực ngoài nhà nước đạt 676.300 tỷ đồng, chiếm 40,5%, tăng 16,8% và khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 396.200 tỷ đồng, chiếm 23,8% và tăng 12,8%. Tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện trong năm 2017 ước đạt 290.500 tỷ đồng, vốn trung ương quản lý đạt 64.400 tỷ đồng và vốn địa phương quản lý đạt 226.100 tỷ đồng, tương ứng bằng 94,4%; 91,1% và 95,4% kế hoạch. Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm đạt 29,7 tỷ USD, tăng 44,2% so với năm 2016, vốn thực hiện ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 10,8%. Ngoài ra, khối ngoại còn góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016. Hình 1. Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội các năm 2015-2017 so với các năm trước (Theo đơn giá hiện hành, đơn vị: %) Nguồn: Tổng cục Thống kê Nguồn vốn đầu tư phát triển của khu vực ngoài nhà nước 2017 đã tăng cao hơn tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội chung (9,7%). Đây là kết quả tích cực của việc thu hút nguồn lực của các thành 91 NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 phần kinh tế, của công cuộc khởi nghiệp được đẩy mạnh từ trung ương đến địa phương, với sự ra đời và trở lại hoạt động của hơn 100.000 doanh nghiệp, hướng đến mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020,... Nguồn vốn đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2017 cũng đạt gần 24,4 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2016, cao nhất từ năm 2009 đến nay. Đáng lưu ý, lượng vốn thực hiện tăng và đạt kỷ lục mới, cao hơn kỷ lục đã đạt vào năm 2016 (ước đạt 15,8 tỷ USD so với 14,5 tỷ USD của năm 2016). Hiệu quả đầu tư tăng biểu hiện bằng suất đầu tư tăng (hệ số giữa tỷ lệ vốn đầu tư/GDP so với tốc độ tăng GDP). Hệ số này của năm 2017 đã thấp hơn những năm trong thời kỳ 2006-2010 (6,2 lần) và thời kỳ 2011-2015 (5,4 lần), nhưng lại cao hơn năm 2016 (5,3 lần so với 4,9 lần) - tức là hiệu quả đầu tư năm 2016 cao hơn thời kỳ 2006-2016, nhưng lại thấp hơn năm 2016. Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP năm 2017 đạt 33%, cao nhất tính từ năm 2012 đến nay, điều đó chứng tỏ việc thu hút vốn đầu tư phát triển trong năm 2016 đã có nhiều cố gắng và đạt kết quả cao nhất trong 5 năm qua. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có sự chuyển dịch tích cực. Nguồn vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế nhà nước tuy tăng thấp nhất (6,7%) trong ba nguồn, nhưng vẫn tiếp tục chiếm tỷ trọng cao (35,7%). Đây là một cố gắng của Nhà nước trong điều kiện cân đối ngân sách gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài/GDP tăng và hiện ở mức cao. Một khoản quan trọng gồm vốn của các doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn khác năm 2017 đã tăng lên nhờ công cuộc cổ phần hóa các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước lớn,... được đẩy mạnh. Tuy nhiên, ở đây có hai vấn đề cần quan tâm khi mà thời gian để được công nhận là nền kinh tế thị trường theo cam kết khi gia nhập WTO đã đến rất gần đó là: Khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn “ôm đồm” nhiều quá, tỷ trọng của vốn đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vẫn còn ở mức cao; hiệu quả đầu tư của nguồn vốn này thấp nhất trong ba nguồn. Hiện nay có hàng chục công trình nghìn tỷ thua lỗ, trong khi cân đối ngân sách còn khó khăn, tỷ lệ nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài/GDP tăng, ở mức cao, có loại đã vượt trần và phải nới trần. 2.2. Hiệu quả đầu tư công a. Xét dưới góc độ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế Thời gian qua, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa trên nền tảng gia tăng vốn đầu tư, trong đó đầu tư công luôn chiếm tỷ trọng cao. Năm 2017 kết thúc với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,7% so với năm 2016, mức tăng này vừa đạt mục tiêu đặt ra. Xét chung cả giai đoạn 2013-2017 thì năm 2017 có mức tăng cao nhất, còn thấp nhất là năm 2013. Bảng 1. Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế Năm 2013 2014 2015 2016 2017 Tỷ trọng vốn đầu tư công/tổng vốn đầu tư toàn xã hội (%) 40,4 39,9 38,0 37,6 35,7 Tốc độ tăng vốn đầu tư công (%) 8,7 10,2 6,7 7,2 6,7 Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) 5,42 5,98 6,68 6,21 6,7 Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả theo giá thực tế Số liệu từ biểu đồ trên cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, mặc dù tỷ trọng đầu tư công trong cơ cấu tổng đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này tăng chậm lại. Điều này đồng nghĩa với việc tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm và dường như là không hiệu quả khi mà tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội giảm nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tăng. Ở khía cạnh mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân thì có thể thấy vốn đầu tư công đã thể hiện được vai trò tích cực, là vốn mồi thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2015, tình hình kinh tế thế giới phức tạp, rơi vào khủng hoảng trên quy mô toàn cầu, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn. Điều hành kinh tế vĩ mô linh hoạt, nhất là chính sách tài khóa, có thời điểm Chính phủ phải kích cầu đầu tư mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (năm 2009) nhưng cũng ngay sau đó phải tiến hành rà soát, điều chỉnh, cắt giảm, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô (từ năm 2011 đến năm 2014). Nên trong giai đoạn này, đầu tư công không thể hiện rõ vai trò, tác động đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, cũng không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò và hiệu quả nhất định của đầu tư công đối với duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá trong thời gian qua. 92 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 Bảng 2. Tăng trưởng kinh tế, đầu tư và xuất nhập khẩu giai đoạn 2013-2017 Năm GDP (tỷ đồng) Tốc độ tăng GDP (%) Tổng đầu tư toàn xã hội (tỷ đồng) Trong đó Xuất nhập khẩu (tỷ USD) PUI (Đầu tư công) PE (Đầu tư tư nhân) FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) XK NK 2013 3.584.262 5,42 1.094.542 441.924 412.506 240.112 132,03 132,03 2014 3.937.856 5,98 1.220.704 486.804 468.500 265.400 150,22 147,85 2015 4.192.862 6,68 1.367.205 519.505 429.600 218.100 162,05 166,16 2016 4.502.700 6,21 1.485.100 557.500 579.700 347.900 175,9 173,3 2017 5.007.900 6,70 1.666.500 594.000 676.300 396.200 209,1 194,47 Nguồn: Tổng cục Thống kê Để đánh giá rõ hơn hiệu quả của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế, tác giả sử dụng mô hình VECM để ước lượng các hàm phản ứng với bốn biến số là tăng trưởng kinh tế, vốn đầu tư công, vốn đầu tư tư nhân (bao gồm cả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), và độ mở của nền kinh tế với hàm Y = f(PUI, PEFDI, XNK). Trong đó, Y là sản lượng của nền kinh tế; PUI là vốn đầu tư công; PEFDI là vốn đầu tư tư nhân (bao gồm cả vốn đầu tư nước ngoài FDI); XNK là độ mở của nền kinh tế. Các dữ liệu được thu thập từ nguồn chính thống của Tổng cục Thống kê từ năm 2010 đến năm 2016, về độ mở của nền kinh tế được tính bằng tỷ lệ xuất khẩu và nhập khẩu. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dường như có mối quan hệ với mức độ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và ngày càng nhạy cảm với những biến động, cú sốc của nền kinh tế thế giới. Hay nói cách khác, độ mở của nền kinh tế (đo lường bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu) cũng có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả ước lượng như sau: Bảng 3. Kết quả hồi quy mô hình Vector Error Correcction Estimatas Date: 06/02/2018 Time: 15:22 Sample (adjusted): 2013 2017 Included abservations: 5 affer adjustments Standard error in () & t-statistics in [ Cointegrating Eq: CoinEq1 N_GDP(-1) 1.000000 N_PUI(-1) -0.213598 (0.06102) [-4.01546] N_PEFDI(-1) -0.645569 (0.02159) [-19.5670] N_XNK(-1) -0.401317 (0.07156) [-6.01259] CE -0.321302 Error Correcction: D(N_GDP) D(N_PUI) D(N_PEFDI) D(N_XNK) CoinEq1 0.389810 (0.58387) [0.66763] -0.315347 (0.49907) [-0.63186] 1.370634 (1.21922) [1.12419] 0.495572 (0.79957) [0.61980] 93 NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 D(N_GDP)(-2) -0.514430 (1.21868) [-0.42212] 3.452026 (1.04169) [3.31386] -3.629919 (2.54481) [-1.42640] 0.040719 (1.66889) [0.02440] D(N_PUI)(-2) 0.150223 (0.60127) [ 0.29951] -1.057058 (0.42872) [-2.46562] 1.064828 1.04734) [ 1.01669] 0.502578 0.68685) [ 0.73171] D(N_PEFDI)(-2) 0.336940 (0.64853) [0.51954] -1.456768 (0.55435) [-2.62790] 1.744875 (1.35424) [1.28845] 0.550679 (0.88812) [0.62005] D(N_XNK)(-2) -0.077939 (0.17108) [-0.45557] -0.150841 (0.14624) [-1.03150] -0.107619 (0.35725) [-0.30125] 0.435352 (0.23428) [1.85823] CE 0.146767 (0.04929) [2.97743] -0.011623 (0.04213) [-0.27586] 0.278383 (0.10293) [2.70451] -0.165922 (0.06750) [-2.45797] R-squared Adj. R-squared Sum sq. resids S.E. equation F-statistic Log likelihood Akaike AIC Schwarz SC Mean dependent S.D. dependent 0.203177 0.128833 0.030594 0.050492 0.611961 31.85506 2.872784 2.575993 0.140832 0.047524 0.673335 0.537225 0.022353 0.043160 4.946983 34.67963 3.186625 2.889835 0.126111 0.063444 0.362046 0.096232 0.133403 0.105437 1.362029 18.60187 1.400207 1.103417 0.152222 0.110908 0.458739 0.233214 0.057374 0.069146 2.034090 26.19598 2.243998 1.947207 0.010000 0.078964 Determinant resid covariance (dof adj.) Determinant resid covariance Log likelihood Akaike information criterion Schwarz criterion 4.21E-01 8.18E-01 121.0011 -14.12658 -11.22233 Nguồn: Tính toán của tác giả Kết quả nghiên cứu cho thấy, đầu tư công có tác động đến tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên mức độ tác động của đầu tư công phát huy tác dụng khi độ trễ của đầu tư là 2 năm, bên cạnh đó, đầu tư tư nhân và độ mở của nền kinh tế cũng có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ thuận chiều, có nghĩa là nếu đầu tư công tăng thì tăng trưởng của nền kinh tế cũng tăng (hệ số beta tính toán dựa vào số liệu công bố là 0.60127 cho mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế). Việc phát huy hiệu quả trực tiếp của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế là một con số khiêm tốn. Tuy nhiên, đầu tư công cũng có tác động gián tiếp góp phần thúc đẩy đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu, từ đó tác động tới tăng trưởng kinh tế. Một trong những mục tiêu chính của đầu tư công đó là cải thiện mức sống của người dân mà trước hết là chỉ tiêu GDP bình quân/người. Đến nay, mức sống của người dân Việt Nam đã được cải thiện một cách đáng kể và thực tế Việt Nam đã được công nhận là một nước có thu nhập trung bình. Kết quả hồi quy mô hình giữa đầu tư công và thu nhập bình quân đầu người cho thấy, nếu đầu tư công tăng 1 đơn vị thì thu nhập bình quân đầu người tăng 0,02 đơn vị. Do đó, có thể khẳng định hiệu quả đầu tư công đối với gia tăng thu nhập bình quân đầu người là không cao. 94 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 Bảng 4. Kết quả hồi quy mô hình Coefficientsa Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. B Std. Error Beta (Constant) PUI 51.331 .002 29.213 .000 .987 2.213 29.231 .023 .000 a. Dependent Variable: GDPnguoi Nguồn: Tính toán của tác giả b. Xét dưới góc độ thực hiện mục tiêu giảm nghèo Về giảm nghèo tại Việt Nam, nếu theo chuẩn do Chính phủ quy định cho giai đoạn 2006-2010 và giai đoạn 2011-2015 thì tỷ lệ nghèo chính thức của Việt Nam năm 2010 là 14,2%, năm 2011 là 12,6%, năm 2012 là 11,1% và tiếp tục giảm còn 9,8% vào năm 2013; 8,4% vào năm 2014; 7,0% vào năm 2015. Bình quân, mỗi năm trong giai đoạn 2011-2015 tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,4 điểm phần trăm. Năm 2016 (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020), tỷ lệ hộ nghèo còn 5,8%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2015; năm 2017, tỉ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn dưới 7% (giảm 1,3 điểm phần trăm so với cuối năm 2016). Trong đó, bình quân tỉ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn dưới 40%; bình quân tỉ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4 điểm phần trăm so với năm 2016, đạt mục tiêu đã đề ra của Chính phủ. Như vậy, dù theo bất cứ chu