Hình ảnh Đà Nẵng xưa trong thơ chữ Hán

Tóm tắt Đà Nẵng không chỉ ngày nay mới được nhiều người biết đến và mến yêu mà còn là cảng thị đã từng nổi tiếng từ lâu. Và, lâu nay Đà Nẵng xưa cũng chỉ mới được nhắc đến, nghiên cứu từ phương diện lịch sử, văn hóa mà dường như chưa có công trình nào tiếp cận, nghiên cứu từ phương diện văn chương, đặc biệt là văn chương chữ Hán. Bài viết này thử bước đầu khai lối tiếp cận hình ảnh Đà Nẵng xưa từ nguồn tư liệu thơ chữ Hán và gợi mở một hướng khai thác văn chương chữ Hán để góp phần cho công cuộc xây dựng, phát triển thành phố.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình ảnh Đà Nẵng xưa trong thơ chữ Hán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016 78 Hình ảnh Đà Nẵng xưa trong thơ chữ Hán The picture of ancient Da Nang in Chinese character’s poetry TS. Nguyễn Hoàng Thân, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng Ph.D. Nguyen Hoang Than, The University of Da Nang – University of Education Tóm tắt Đà Nẵng không chỉ ngày nay mới được nhiều người biết đến và mến yêu mà còn là cảng thị đã từng nổi tiếng từ lâu. Và, lâu nay Đà Nẵng xưa cũng chỉ mới được nhắc đến, nghiên cứu từ phương diện lịch sử, văn hóa mà dường như chưa có công trình nào tiếp cận, nghiên cứu từ phương diện văn chương, đặc biệt là văn chương chữ Hán. Bài viết này thử bước đầu khai lối tiếp cận hình ảnh Đà Nẵng xưa từ nguồn tư liệu thơ chữ Hán và gợi mở một hướng khai thác văn chương chữ Hán để góp phần cho công cuộc xây dựng, phát triển thành phố. Từ khóa: thơ văn, thơ chữ Hán, Đà Nẵng xưa, văn học Đà Nẵng, hình ảnh Đà Nẵng Abstract Da Nang is not only a beloved city in recent years but a well-known port city for a long time. However, Da Nang is just mentioned and researched from the historical and cultural aspects but is not engaged from the middle-age literature, especially from the Chinese character’s poetry aspect. This article initially tries to approach the picture of ancient Da Nang from the source of Chinese character’s poetry and unveils a new trend in exploring Chinese character’s poetry in order to contribute to the development of the city. Keywords: Chinese character’s poetry, ancient Da Nang, Da Nang literature, Da Nang picture Lâu nay người ta khai thác tư liệu về Đà Nẵng chủ yếu là ở các bộ sử tịch hay những văn bản Hán Nôm bằng dạng văn như văn bia, gia phả, địa bạ, sắc phong, hương ước mà thường chưa quan tâm đến tư liệu thơ chữ Hán. Có lẽ là do thơ chữ Hán nằm rải rác trong các bộ tổng tập, hay tuyển tập và thi tập đơn biệt của các tác giả Hán Nôm. Tra sưu và lập phiếu tư liệu về chủ đề như vậy thường mất rất nhiều thời gian, mà đôi lúc “hiệu ích” mang lại không cao. Song, việc sưu tập, xây dựng kho dữ liệu thơ chữ Hán về Đà Nẵng để góp thêm tư liệu nghiên cứu về Đà Nẵng là việc rất cần thiết và có ý nghĩa lâu dài. 1. Thơ chữ Hán về Đà Nẵng - Những hướng tiếp cận bước đầu Vùng đất xứ Quảng ra đời tương đối muộn so với diễn trình lịch sử của dân tộc. Và thơ chữ Hán về Đà Nẵng ra đời càng muộn hơn so với mảnh đất tạo nguồn thi hứng cho nó. Đến nay, chúng ta chỉ có thể biết được bài thơ chữ Hán sớm nhất là bài Hải Vân hải môn lữ thứ của Lê Thánh Tông viết vào năm 1471. Muộn hơn một ít là câu 79 “thơ” trong văn của Dương Văn An: “Thạc Giản vài ông lão buông câu” trong Ô châu cận lục vào giữa thế kỉ XVI. Còn phần lớn thơ chữ Hán về Đà Nẵng ra đời vào giai đoạn chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Xét về “thời gian” xuất hiện thì thơ chữ Hán về Đà Nẵng được phân chia theo từng chặng đường lịch sử của vùng đất. Đó là những vần thơ trong buổi đầu hành trình Nam tiến của cha ông. Tiêu biểu nhất là bài Hải Vân hải môn lữ thứ của Lê Thánh Tông. Đó là những bài thơ trong giai đoạn chúa Nguyễn xây dựng chính quyền Đàng Trong, như Ái lĩnh Xuân Vân của Nguyễn Phúc Chu, Tam Thai tự thính triều của Thiên Túng Đạo Nhân, Vịnh Tam Thai của Thích Đại Sán... Đó là một loạt bài thơ trong giai đoạn triều Nguyễn với biết bao chủ thể sáng tác, chủ đề nội dung, như: Độ quan, Túc Cu Đê điếm, Du Tam Thai tự, Ngẫu hứng của Phan Thanh Giản; Trà Sơn quân thứ của Phạm Văn Nghị; Châu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân kí biệt tòng du chư đệ tử, Lưu viện du nguyệt, văn đắc tái phát Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm của Cao Bá Quát; Đồ quá Hải Vân quan, ngẫu thành của Nguyễn Xuân Ôn; Quá Hải Vân sơn, Vọng dạ túc Hải Vân sơn đình khách xá; Trà Úc chu thượng khẩu chiếm, Chu để Đà Nẵng tấn chí sự của Phạm Phú Thứ; Đà Nẵng hoài cảm của Trần Quý Cáp; Trà Áo dạ phiếm, Quá Hải Vân của Hà Đình Nguyễn Thuật hay những bài thơ chưa rõ tiêu đề của Nguyễn Thượng Hiền, Bùi Văn Dị Xét về “không gian” biểu hiện, thơ chữ Hán về Đà Nẵng chủ yếu miêu thuật 3 không gian (địa điểm) “đột khởi” và kì tú, linh thiêng mà phản chiếu tức thì vào đôi mắt thi nhân là Hải Vân quan, Ngũ Hành Sơn, Trà Sơn - Trà Áo - Đà Tấn. Về không gian hùng vĩ, khoáng đạt Hải Vân có những bài: Hải Vân hải môn lữ thứ, Độ quan, Túc Cu Đê điếm, Quá Hải Vân sơn, Vọng dạ túc Hải Vân sơn đình khách xá, Quá Hải Vân Về không gian kì tú, linh thiêng Hành Sơn có những bài: Tam Thai tự thính triều, Vịnh Tam Thai, Du Tam Thai tự, Du Ngũ Hành Sơn, Bạch thạch hoàng sa, Hành Sơn tú khí Về không gian sâu lắng mà luôn dậy sóng Trà Sơn - Trà Áo - Đà Tấn có những bài với sắc vẻ từ tĩnh lặng như Trà Úc chu thượng khẩu chiếm, Chu để Đà Nẵng tấn chí sự, Trà Áo dạ phiếm đến dậy sóng như Đà Nẵng hoài cảm, Trà Sơn quân thứ Xét về chủ thể sáng tác, thơ chữ Hán về Đà Nẵng do đủ các thành phần giai tầng khác nhau làm nên. Từ vua, có Lê Thánh Tông, Minh Mạng; chúa, có Nguyễn Phúc Chu - Thiên Túng Đạo Nhân; quan, có Trương Quang Đản, Bùi Văn Dị, Nguyễn Văn Mại, Nguyễn Thuật, Cao Xuân Dục, Đào Tấn, Nguyễn Cao, Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Văn Nghị, Trần Bích San, Vũ Phạm Khải; vương, có Miên Thẩm; công chúa, có Mai Am, Huệ Phố; quan đi sứ, có Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ; quan bị biếm đày, có Cao Bá Quát; chí sĩ, có Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Bá Trinh; tăng sư, có Đào Tiến Mai, Quy Thiện; nữ lưu, có Lê Thị Thuân, Cẩm Tú Hồ Thị Tham, Bà Bang Nhãn; người nước ngoài, có Thích Đại Sán, Lí Triệu Tuấn Xét về nội dung chuyển tải, thơ chữ Hán về Đà Nẵng cũng cùng dòng chảy với thơ chữ Hán trung-cận đại của Việt Nam. Tức cũng bao chứa những nội dung tả cảnh, ngụ tình, ngôn chí Những vấn đề này sẽ được trình bày rõ hơn trong phần dưới đây. 80 2. Hình ảnh Đà Nẵng trong thơ chữ Hán - Vài nét phác họa ban sơ 2.1. Trước hết, không gian địa giới Đà Nẵng được xác định rõ bởi núi Hải Vân. Đây không chỉ là vùng đất “Nam thiên”: Hỗn nhất xa thư cộng bức quyên Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên (Xa thư gộp một nền chung Hải Vân, nét gạch khoanh vùng trời nam) (Hải Vân hải môn lữ thứ - Lê Thánh Tông; Ngô Linh Ngọc dịch) Mà còn là vùng đất xung yếu như đất Thục: Việt Nam xung yếu thử sơn điên Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên (Ngọn núi này là chỗ xung yếu nhất của Việt Nam, Chẳng khác gì cảnh hiểm nghèo như đường vào đất Thục) (Ái lĩnh Xuân Vân - Nguyễn Phúc Chu; Nguyễn Q. Thắng dịch) Hải Vân vừa là địa giới tự nhiên của Đà Nẵng vừa là một nơi phong cảnh hữu tình, đầy ấn tượng. Bất cứ ai vượt qua nó tiến về Nam hay những ai băng qua nó để thượng kinh thì cũng đều dậy lên một cảm xúc dâng trào và hạ bút thành thi. Hình ảnh Hải Vân từ mấy trăm năm trước đã là: Dao vọng Hải Vân quan. Du vân chính dung duệ (Nhìn đèo Hải Vân xa, Mây sũng nước ngầu đục) (Độ quan 2 - Phan Thanh Giản; nhóm tác giả sách Thơ văn Phan Thanh Giản dịch) Đản kiến vân hoành tam tuần lĩnh, Bất tri nhân tại kỉ trùng thiên. Lãnh triêm tu phác phi đồng tuyết, Thấp triển y thường khởi thệ tuyền. (Đứng trên đỉnh chỉ thấy mây phủ cả ba tầng núi cao, Và không biết bao nhiêu mây trắng như bao bọc quanh ta. Khí lạnh bám vào tóc râu chẳng khác gì tuyết dính, Làm cho quần áo ướt sũng như dưới khe vừa bước lên) (Ái lĩnh Xuân Vân - Nguyễn Phúc Chu; Nguyễn Q. Thắng dịch) Hải Vân quan trong thơ chữ Hán xưa với một quang cảnh núi rừng bao la, đa vẻ và được gói lại trong tứ thơ: Nguy sạn khủng điên quệ. Lâm khích kiến triêu nhật, Thụ diệp vũ điểm truy. Thạch kính đài tiên hoạt, Lâm ái phương ung ế. Ai viên đề bất trú, Hàn điểu thanh tương kế. (Núi đứng chênh vênh như con thú dữ, Giơ mõm vào người cắn sủa. Nước khe lớn ào ào tuôn chảy: Cầu treo cao sợ bị lật nhào. Qua kẽ lá đã thấy ánh ban mai, Mưa rơi từ lá rừng xuống từng giọt, từng giọt. Rêu phong lối đi bằng đá dễ trượt, Cây rừng rậm rạp che kín khắp. Tiếng vượn kêu thảm thiết không ngớt, Tiếng chim kêu tiếp theo trong gió lạnh) (Độ quan 2 - Phan Thanh Giản; nhóm tác giả sđd dịch) Hải Vân ấn tượng để rồi khó quên, là bạn tri âm của khách bộ hành. Đến khi một lần gặp lại, nhà thơ quan triều Phan Thanh Giản phải thốt lên: Kim nhật trùng lai xứ Tương phùng thị cố nhân (Hôm nay trở lại Hải Vân, Gặp nhau chính bạn quen thân những ngày) (Độ quan 1; nhóm tác giả sđd dịch) Cảnh sắc Hải Vân quan còn ẩn lưu trong những bài thơ khác như Quá Hải Vân của Hà Đình Nguyễn Thuật, Đồ quá Hải Vân quan, ngẫu thành của Nguyễn Xuân Ôn 2.2. Trên non dưới biển, sau Hải Vân là đến Đồng Long - Trà Áo - Đà Tấn. Cửa 81 biển Đà Nẵng với khung cảnh “bờ bến mênh mông, sóng gió cuồn cuộn” (Lê Thánh Tông), “Đại hải hà mang mang = Biển khơi rộng mênh mang vô chừng” (Phan Thanh Giản), “Đà tấn vân sơn tiệm giác thu = Đà tấn non mây thu lững lờ” (Cao Bá Quát), là nơi giao lưu quốc tế quan trọng. Đây là nơi tụ hội tàu bè các nước đến nơi này buôn bán tấp nập: Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền = Gió ru thuyền Lộ canh năm (Hải Vân hải môn lữ thứ - Lê Thánh Tông; Ngô Linh Ngọc dịch). Đây là nơi chứng kiến những sứ thần triều Nguyễn xuất dương thực thi trọng nhiệm quốc gia, như Phan Thanh Giản với bài Ngẫu hứng, Phạm Phú Thứ với những bài Trà Úc chu thượng khẩu chiếm, Chu để Đà Nẵng tấn chí sự Đây còn là nơi chứng kiến những bề tôi bị biếm đày như trường hợp Cao Bá Quát, được ghi lại trong bài thơ Lưu viện du nguyệt, văn đắc tái phát Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm của ông. Biển Đà Nẵng còn là ngư trường sinh nhai của người dân sở tại: “Phủ thị Thanh Khê ảo/ Phàm tường khả chỉ kế = Nhìn xuống vũng Thanh Khê/ Các cột buồm, có thể chỉ tay đếm ngón”, “Ngư lang xao mãn hàn đàm nguyệt = Chiếc sào của làng chài đập mặt nước đêm sáng trăng lấp loáng” (Độ quan 1, Ngẫu thành - Phan Thanh Giản). Gió biển Đà Nẵng còn là bạn của nhà nông: “Duy nguyện hải phong xuy tác vũ/ Chính nghi thiên lí nhuận tang điền = [Bây giờ] chỉ mong gió ngoài biển xa đem mưa lại/ Tưới mát cho ngàn dặm ruộng dâu ở đất này” (Ái lĩnh Xuân Vân - Nguyễn Phúc Chu). 2.3. Hình ảnh nổi bật nhất đồng thời chiếm số lượng nhiều nhất trong thơ chữ Hán về Đà Nẵng là bóng dáng Non Nước - Ngũ Hành. Bởi đây là nơi trên Non dưới Nước của phong cảnh hữu tình - hòa hợp, là nơi Ngũ Hành của triết lí vũ trụ - nhân sinh. Trong bài viết “Đôi vần thạch thi non thiêng Ngũ Hành” trên Tạp chí Văn hóa - Du lịch Đà Nẵng số 23 [2], chúng tôi đã có dịp trình bày tương đối chi tiết hình ảnh non thiêng Ngũ Hành được thể hiện trong những tác phẩm thơ chữ Hán của các tác giả đủ mọi giai tầng. Ở đây, tác giả chỉ điểm lại vài nét phác họa. Đó là cảnh sắc Ngũ Hành muôn màu muôn vẻ. Lúc thì thâm u huyền tịch với những thi từ: “bán dạ chung thanh”, “hơi mưa lạnh”, “Phong bi ám đạm thu sương lão/Cổ tự thanh u dạ nguyệt hàn”. Lúc thì rộn ràng nhộn nhịp với “lối xe ngựa sau sau trước trước”, “người lên trước kẻ lên sau”, “ba đào muôn lớp dội sườn non”. Lúc thì bao la giữa trời không, thể hiện qua những hình ảnh “muôn cảnh bao la Vọng Hải đài”, “nghi ngút đền đài quyện khói lên”, “khí thiêng nghi ngút núi chon von/ rõ thật Bồng Lai giữa biển con”. Ngũ Hành Sơn vẫn là nơi thoát tục, xa lánh cõi trần, chỉ còn là non thiêng quyện trong khói hương. Từ thời Lê Thánh Tôn, núi Ngũ Hành “còn ngoài bể”. Hoàng Diệu đã “từng lấy làm lạ rằng: Vua Lê Thánh Tôn tuần hành đến đâu đều có đề vịnh. Mà Ngài viếng Quảng Nam ba lần, không thấy nói đến Ngũ Hành Sơn” [3]. Đến đời Nguyễn, Ngũ Hành Sơn cũng chỉ là “phong nguyệt tĩnh thành tân kết lữ” (làm bạn với gió trăng thành lặng), “màn tiên cảnh vắng đành xa tục”. Chính vì vậy nơi đây chủ yếu dành cho những ai tìm đến để “bao nhiêu khối lỗi bỗng tiêu mòn”, “khéo để riêng cho một cõi nhàn” mà hòa cùng “lửa hương còn quyện với giang san”. 2.4. Những nội dung trên là nhìn hình ảnh Đà Nẵng từ những không gian - vị trí riêng biệt. Song vẫn có nhiều bài thơ khắc họa một cách trọn vẹn hình ảnh tổng thể của Đà Nẵng xưa. Đọc lại trong thơ chữ 82 Hán, chúng ta thấy hình ảnh Đà Nẵng xưa thật yên bình: Đà Nẵng loan đầu lục tự đài. Trà sơn yên ái hợp Tam Thai. Ngư lang xao mãn hàn đàm nguyệt, Tăng quản xuy đoàn dã tự mai. Bán chẩm dạ triều hô mộng khởi, Nhất liêm sơ vũ tống sầu lai. Phiến vân khứ trú hồn vô định, Bất cảm trùng đăng Điện Hải đài. (Biển Đà Nẵng xanh rêu, Trà Sơn mây vẫn thuận chiều Tam Thai. Đầm trăng lộn bóng vó chài, Gốc mơ, sư dạo thổi chơi sáo chùa. Triều lên, bật dậy trong mơ, Ngoài rèm mưa đến đầu mùa buồn tênh. Làn mây vô định bồng bềnh, Thăm đài Điện Hải tái trình, đành thôi) (Ngẫu hứng - Phan Thanh Giản; nhóm tác giả sđd dịch) Hay bài Trà Áo dạ phiếm của Hà Đình cũng đã cảm thuật: Hải thiên vạn khoảnh vọng man nhiên Thập trượng bồ phàm tán mộ yên Phong cấp như đăng quang bất định Sơn không nguyệt ảnh chiếu vô biên Triều khê tỉ ngạc tằng hà nhựt Đào chẩm văn kê ức tích niên Thùy thị hùng tâm thôn bất đắc Nhứt ca khảng khái phá sầu miên (Chân trời vạn khoảnh ngó mút tăm, Bãi sông mười trượng, buồm tan khói chiều Gió vù vù đèn chài chao lắc lư, Núi vắng trăng sáng mênh mông. Biển khe dời cá sấu có bao giờ, Gối sóng nghe gà gáy nhớ chuyện năm xưa. Ai có hùng tâm nuốt không được? Lời ca khẳng khái phá ngủ buồn) (Nguyễn Q. Thắng dịch) 2.5. Đà Nẵng nên thơ là vậy, yên bình là vậy, nhưng vì là cửa ngõ giao lưu quốc tế, là địa - quân sự quan trọng nên không thể nào thoát khỏi tiếng súng của giặc Tây để làm bàn đạp tiến vây kinh thành. Nguyễn Xuân Ôn đã viết trong Đồ quá Hải Vân quan, ngẫu thành: Dương pháo bôn sơn lũy, Ô thuyền hám hải than. (Súng Pháp đánh đồn núi, Tàu Ô ngó cửa Hàn) (Nguyễn Đức Vân - Hà Văn Đại dịch) Và Trần Quý Cáp biểu đạt nỗi cảm hoài của hình ảnh Đà Nẵng bị ngoại xâm, được trình bày trong Bài thơ 110 năm trước của Trần Quý Cáp [1]: Thử địa do hà động chiến phong, Chí kim đáo xứ thỉ xà tung. Thuyền lâm nội phụ tam tài sắc, Xa tẩu trùng quan nhứt lộ thông Cố quốc sơn hà lân địch lí Thùy gia lầu các tịch dương trung (Chinh chiến vì đâu nảy họa tai? Mà nay thấy những dấu lang sài! Cờ ba sắc nhoáng tàu vô cửa, Xe một đường thông ải suốt dài. Tiếng địch gọi hồn non nước cũ Bóng chiều chói rạng phố lầu ai?) (Nguyễn Q. Thắng dịch) 2.6. Cũng từ đó, hình ảnh Đà Nẵng lại hiện lên tinh thần chống thực dân Pháp và thế giới phương Tây ngoại xâm với tinh thần “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Với Phạm Văn Nghị: (Đang) căm giận nhìn về Trà Sơn, (nơi) lũ giặc thối tha kéo đến (Thì) hôm nay (ở) Trà Sơn, mù biển (đã) tan Kẻ sĩ mang lòng khẳng khái sắp tiến lên (Thì) nhà vua thấy nỗi lòng vất vả lại cho về Làm hay thôi, chỉ biết gặp sao hay vậy Sai hay đúng, việc gì lại ngờ vực nhau 83 “Tùng bách mùa rét”: câu phê của vua còn đó Tấm lòng trinh bạch chưa chịu (thành) tro nguội (Trà Sơn quân thứ) Còn với Nguyễn Xuân Ôn, là: “Quân gia ngồi nai nịt/ Tráng sĩ uổng căm gan/ Nguyên nhung giá đặt trướng/ Thượng tướng được lên đàn/ Vì người khá gìn giữ/ Vững vàng như Thái San” (Nguyễn Đức Vân - Hà Văn Đại dịch). Và với Trần Quý Cáp, thì: “Ước chi nay có Trần Hưng Đạo/ Lập lại Đằng giang trận thứ hai!” (Nguyễn Q. Thắng dịch). Đà Nẵng xưa đã thành dĩ vãng. Muốn tìm hiểu về Đà Nẵng xưa sẽ có nhiều con đường tiếp cận khác nhau. Song lẽ, tiếp cận Đà Nẵng xưa bằng văn chương sẽ đôi phần hấp dẫn, vì nó vừa mang sự thực lịch sử bởi những tác giả đương thời và lại vừa hàm ý vị thi ca bởi những tứ thơ trau chuốt của cổ nhân. Đồng thời tìm hiểu xưa để ứng dụng nay. Biết đâu trong tương lai gần, Đà Nẵng sẽ xây dựng một chiến lược du lịch văn chương như nước láng giềng Trung Quốc đã thực hiện thành công? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Dị Cổ (2014), “Bài thơ 110 năm trước của Trần Quý Cáp”, Tạp chí Văn hóa - Du lịch Đà Nẵng, số 24, Đà Nẵng, tr.82-83. 2. Nguyễn Hoàng Thân (2013), “Đôi vần thạch thi non thiêng Ngũ Hành”, Tạp chí Văn hóa - Du lịch Đà Nẵng, số 23, Đà Nẵng, tr.67-69. 3. Lê Hoàng Vinh (2003), Ngũ Hành Sơn - Di tích và thơ ca, Nxb Văn học, H., tr.9. Ngày nhận bài: 14/12/2015 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016