TÓM TẮT
Với các bạn trẻ Việt Nam ngày nay, mạng xã hội (facebook, blog, diễn đàn internet )
đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật. Với những ưu điểm
của mạng internet, giới trẻ có thể tạo dựng một hình tượng ảo về bản thân như ý muốn.
Nhưng sự tạo dựng ảo đó liệu có đem lại hậu quả khó kiểm soát nào cho đời sống thực?
Nghiên cứu dưới đây tập trung vào sự tạo dựng hình tượng và bản sắc cá nhân của thanh
niên (từ 18 – 35 tuổi) đô thị Việt Nam trên mạng xã hội.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng cá nhân của giới trẻ trên mạng xã hội: Những ảnh hưởng trong đời sống thực (Trường hợp lứa tuổi thanh niên ở đô thị Việt Nam), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 - Thaùng 2/2014
70
HÌNH TƯỢNG CÁ NHÂN CỦA GIỚI TR TRÊN MẠNG XÃ HỘI:
NHỮNG ẢNH HƯỞNG TRONG ĐỜI SỐNG TH C
(TRƯỜNG HỢP LỨA TUỔI THANH NIÊN Ở ĐÔ THỊ VIỆT NAM)
ĐINH MỸ LINH(*)
TÓM TẮT
Với các bạn trẻ Việt Nam ngày nay, mạng xã hội (facebook, blog, diễn đàn internet)
đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật. Với những ưu điểm
của mạng internet, giới trẻ có thể tạo dựng một hình tượng ảo về bản thân như ý muốn.
Nhưng sự tạo dựng ảo đó liệu có đem lại hậu quả khó kiểm soát nào cho đời sống thực?
Nghiên cứu dưới đây tập trung vào sự tạo dựng hình tượng và bản sắc cá nhân của thanh
niên (từ 18 – 35 tuổi) đô thị Việt Nam trên mạng xã hội.
Từ khoá: hình tượng cá nhân, giới trẻ, mạng xã hội, đô thị Việt Nam.
ABSTRACT
For the Vietnamese youth, nowadays, the social networks (facebook, blog, internet
forum ...) have become an indispensable part of their daily life. Thanks to the advantages
of the internet, young people can create the "virtual" images of themselves as they like.
However, does the "virtual" creation bring uncontrollable consequences to the real life?
The study focuses on the creation of the individual images and identities of the youth aged
from 18 to 35 years in the social networks in Vietnamese urban areas.
Keywords: individual images, the youth, the social networks, Vietnamese urban areas.
1. SỰ TẠO DỰNG CÁ TÍNH CỦA
THANH NIÊN Đ TH VI T NAM
QUA MẠNG XÃ H I
1.1. Trong mạng xã hội, việc người dùng
tạo ra hình ảnh cá nhân theo cách nào phụ
thuộc rất nhiều vào đặc tính “ảo”, ẩn danh
của mạng internet. Việc tận dụng tính
năng “ảo” của internet theo cách nào,
trước hết, phụ thuộc vào mục đích sử
dụng mạng xã hội của mỗi bạn trẻ. Theo
khảo sát của chúng tôi, lứa tuổi thanh niên
sử dụng mạng xã hội có thể phân chia
thành hai nhóm: Nhóm 1: có nhu cầu thể
hiện bản thân cho chính mình; Nhóm 2:
nhu cầu hướng hình ảnh bản thân đến sự
tiếp nhận của cộng đồng mạng.
Nhóm (1) được nhận diện bằng dấu
hiệu: xây dựng hình ảnh cá nhân hướng
đến độc giả là chính bản thân mình nhiều
hơn độc giả là cộng đồng mạng. Ý thức bộc
lộ cái tôi, ở đây, chủ yếu để chính người sử
dụng mạng cảm nhận rõ hơn về bản ngã của
mình. Với một số đối tượng, mạng xã hội là
môi trường giao tiếp xã hội ở một dạng
khác, mạng là một lát cắt của đời sống; bởi
vậy mục đích lên mạng là để chiêm nghiệm
cuộc sống trong một môi trường tương
đương với đời thực. VD: Đối tượng 1A, nữ
giới, 32 tuổi, lý giải sự thể hiện bản sắc của
cô trên mạng xã hội là do có thói quen thể
hiện cái tôi tự nhiên trong mọi việc. Còn với
một nhóm đối tượng khác, sử dụng mạng xã
hội còn cho phép mở rộng cách thức bộc lộ
cái tôi. Người dùng coi mạng xã hội như
một giải pháp lấp đầy nhu cầu tự thể hiện –
vốn chưa được thỏa mãn triệt để trong cuộc
sống thực. Như đối tượng 1B, 1C, 1D chia
sẻ: Những thành viên trên mạng thường thể
(*)
ThS, Viện Nghiên cứu văn hóa.
71
hiện rõ cá tính, thậm chí là những cá tính ít
bộc lộ trong cuộc sống ngày thường, vì
mạng xã hội cho họ nhiều cách thức khác
để thể hiện bản thân hơn các giao tiếp
thông thường. Như vậy, nhóm những
người sử dụng mạng như một thói quen và
trải nghiệm sẽ có xu hướng thể hiện cái tôi
trên mạng một cách vô thức, hoặc bộc lộ
tự nhiên, hoặc để khám phá con người tiềm
ẩn của mình.
Với nhóm (2), người dùng mạng xã
hội có nhu cầu hướng đến độc giả là những
người dùng mạng khác. Ở đây nhu cầu bộc
lộ cái tôi cá nhân là trước sự chứng kiến
của người khác. Động lực của nhóm này có
thể kể đến: mối liên hệ lợi ích với đời thực
(VD: đối tượng 2A, nữ giới, 27 tuổi, là chủ
kinh doanh một quán ăn tư nhân, dùng
mạng xã hội phục vụ cho công việc: sử
dụng mạng xã hội để quảng bá, trao đổi với
khách hàng về dịch vụ của quán, nên hình
ảnh bản thân cũng phải gắn kết với uy tín
kinh doanh); hoặc coi nhu cầu được bày tỏ
và trở nên nổi trội làm mục đích lên mạng
(VD: đối tượng 2C, nữ giới, 23 tuổi, cho
rằng nếu mình có điểm hay thì nên để
nhiều người biết, vì bản thân cô thích nổi
tiếng, thích được tỏa sáng). Bởi vậy sự bộc
lộ cá tính này là bộc lộ có ý thức, cần có
“khán giả”. Với mục đích dùng mạng xã
hội hướng tới “công chúng” như vậy, thông
thường người dùng thể hiện hình ảnh bản
thân một cách có ý thức, tuỳ theo mục
đích, động cơ mà chọn lọc cách thức bộc lộ
cái tôi và bộc lộ thật/ảo đến đâu.
1.2. Nương theo tính năng của mạng xã
hội, các cách thức được giới trẻ ưa chuộng
để thể hiện mình bao gồm: các bài viết
(VD đối tượng 1A sử dụng thế mạnh của
bản thân là cách giao tiếp nhẹ nhàng, chân
thành nhưng dứt khoát, khiếu sử dụng ngôn
từ và cách hành văn khúc triết để thu hút
người khác, khiến mọi người dễ dàng hiểu
về cô hơn); ảnh chụp cá nhân (VD 1B trầm
tính, ít lời thì internet rất thích hợp thể hiện
sở thích chụp ảnh của anh); sản phẩm trong
công việc (VD 2A thông qua ảnh chụp sản
phẩm để thể hiện uy tín của mình); tin nhắn
và bình luận (cho thấy chính kiến); trích
dẫn tài liệu hay trên mạng (giúp gia tăng
thiện cảm và độ tin cậy cho người dùng).
Với những cách thức đó, giới trẻ hiện
nay đã xây dựng một vài chiến lược tạo
dựng hình ảnh bản thân trên mạng xã hội,
có thể được khái quát như sau:
Xây dựng hình tượng hoàn mỹ cho bản
thân. Trường hợp này xuất hiện ở người tự
tin, thích ưu điểm của bản thân được khen
ngợi (như 2C muốn xây dựng hình ảnh của
mình theo hướng hoàn hảo và đáng ngưỡng
mộ, phục vụ cho mục đích lấy mạng xã hội
làm nơi được nhận nhiều lời khen tặng, lưu
giữ kỷ niệm vui cho bản thân, do đó cô tập
trung xây dựng các đặc điểm “đáng yêu, dễ
thương, chân thật, tình cảm”); và người
thích chứng tỏ thể diện cá nhân (như đối
tượng 2D coi mạng internet là thế giới “ảo”
riêng biệt, không biết ai nói thật nói dối, vì
vậy 2D cho rằng có thể xây dựng một con
người hoàn toàn mới thông qua “nick
name”. Hình ảnh mới này hướng tới sự
hoàn mỹ, toàn diện, không nhất thiết phải
là phẩm chất có thực của mình).
Chọn lọc phẩm cách tốt của bản thân.
Một trong những chiến lược đối phó với
việc cùng lúc giao tiếp với nhiều người là
kiểm soát hình ảnh bản thân, chắt lọc ra
những phần tính cách tốt trong tổng hòa
con người mình – thường là những mặt
tính cách dễ chấp nhận, dễ gây thiện cảm
cho số đông. 2A với mục tiêu tăng cường
uy tín kinh doanh cũng lựa chọn cách chắt
lọc các ưu điểm của bản thân để giao lưu,
thể hiện trên mạng xã hội, như thế vừa gia
tăng thiện cảm, tạo độ thân thiết với khách
hàng vừa dựa trên những phẩm chất có
thực của 2A, phù hợp với tiêu chí “đáng
tin cậy và thân thiện” mà cô mong muốn
biểu hiện.
Độc đáo, khác lạ với số đông là một
chiến lược khác của giới trẻ tạo cho mình
hình tượng “cá tính”, nổi bật trên internet.
72
VD: Đối tượng 2D thích được nổi tiếng,
nên không chỉ đưa ra những phẩm chất tốt
của mình, 2D còn cố gắng chọn những
điểm độc đáo, khác lạ, ví dụ thể hiện hình
ảnh “tốt bụng và bí hiểm”, để chứng tỏ
mình khác biệt với số đông, thể hiện “cá
tính”, cho mình hình tượng “độc và lạ” bên
cạnh những nét tốt đẹp, ưu tú (“sôi nổi,
tình cảm, sâu lắng”).
Bên cạnh đó, vẫn có những đối tượng
thể hiện một hình ảnh bộc lộ cả phần
khuyết điểm, không hoàn hảo của mình.
Thường thấy ở những người coi mạng xã
hội như nơi trút tâm sự hoặc xả bực dọc,
hướng nhu cầu dùng mạng tới bản thân
mình. Đối tượng 1A là một trường hợp
thường dùng mạng xã hội để trút ra những
căng thẳng, buồn bực của đời sống thực,
những chiêm nghiệm, suy nghĩ và tâm sự
trải qua trong ngày. Đối tượng này coi
mạng là nơi bộc lộ cảm xúc ngẫu hứng của
bản thân, nơi bộc lộ chính kiến cả tích cực
lẫn tiêu cực, qua đó mà bản sắc cá nhân sẽ
tự hiện lên. Tuy vậy, vì tính chất giao tiếp
cùng lúc với nhiều người, trong đó có cả
những người ẩn danh, mà sự phô bày mặt
tiêu cực của bản thân cần phải có kiểm
soát, kiềm chế bớt, không thể bộc lộ quá
riêng tư.
Như thế, khi một người dùng vô thức
bộc lộ bản sắc của mình trên mạng, thì họ
thường có phản xạ phòng vệ tự nhiên bằng
cách chọn lọc, kiểm soát “phần không để lộ
ra” – chiến lược như trong giao tiếp thực.
Còn khi người dùng có ý thức, có mục đích
phơi bày bản thân trên mạng thì cái tôi của
họ có phần được phóng đại hơn, thậm chí
“ảo”, song họ có xu hướng chú tâm nhiều
hơn vào việc chọn tính cách nào “nên lộ ra
để gây ấn tượng”, mà ít để ý hơn tới những
nét tính cách “không nên để lộ ra”.
2. CÁC Đ C TRƯNG CỦA HÌNH TƯỢNG
CÁ NHÂN TRÊN MẠNG XÃ H I
Vậy thanh niên đô thị nước ta muốn
trở thành hình tượng thế nào trong môi
trường giao tiếp mới – môi trường mạng xã
hội?
2.1. Dựa theo nhu c u sử dụng mạng xã hội
Hình ảnh mong muốn của giới trẻ tuỳ
thuộc đối tượng giao tiếp và mục đích dùng
mạng xã hội ở mỗi người. Những người thể
hiện bản thân đúng như ch nh mình trong
cuộc sống có xu hướng giao tiếp với các
mối quan hệ thật qua mạng, ví dụ trường
hợp coi mạng xã hội như một thói quen
giao tiếp hàng ngày (đối tượng 1A). Những
phẩm chất, tính cách được thể hiện trên
mạng xã hội được bộc lộ tự nhiên, cả mặt
tốt và mặt xấu, ít nặng về tính chỉnh sửa
hơn các trường hợp khác. Đối tượng 1A
cho rằng hình ảnh trên mạng của mình khá
cảm tính, thất thường, chân thành, là những
điểm giống nhất với con người thực của cô
ngoài đời.
Đối với những mục đích khám phá bản
thân, tìm thêm một công cụ thể hiện cá tính
bổ sung cho đời thực, người dùng mạng xã
hội có xu hướng thể hiện cái tôi tự tin,
năng động hơn, bộc lộ mặt “hài hước, sôi
nổi” của bản thân trên mạng. Những người
thuộc trường hợp này thường là người ít có
điều kiện bộc lộ bản thân trong đời sống
thực (ví dụ đối tượng 1C chủ yếu làm nội
trợ, nuôi con nhỏ), mạng xã hội cho phép
họ mạnh dạn hơn, giao du rộng hơn (ví dụ
trường hợp 1D mở rộng quen biết và có
phần năng động hơn khi tham gia các hoạt
động tình nguyện từ mạng xã hội). Họ cho
rằng mạng xã hội cho họ những cách thức
thể hiện mình rất mới lạ (chèn ảnh cá nhân,
dùng hình đại diện, thể hiện ý kiến tán
đồng hay yêu thích một cách nhanh chóng
(ví dụ thông qua chức năng “like” của
mạng facebook), đưa thông tin sở thích),
từ đó cho phép họ thể hiện sở thích (như
đối tượng 1B cho rằng nơi thích hợp nhất
để bộc lộ sở thích chụp ảnh là mạng xã
hội), hoặc nhanh chóng thu hút những
người cùng sở thích, quan điểm, dễ dàng
kết bạn và tìm đúng đối tượng trao đổi hơn.
Đồng thời mạng xã hội cho phép con người
73
bộc lộ mình mà không cần đối diện trực
tiếp với người khác, không gặp phải thái độ
phản hồi ngay tức thì, do vậy việc bộc lộ ý
kiến cũng dễ dàng hơn, tự tin hơn, như lý
giải của đối tượng 1C.
Đối với nhu cầu dùng mạng xã hội
phục vụ mục đích công việc, tình cảm
riêng, người sử dụng hướng bản thân tới
các giá trị “đáng tin cậy, dễ mến, dễ gần”.
Đây là những phẩm chất vừa đủ để tạo độ
thân thiện và uy tín, phù hợp để không
quá sa đà vào sự chia sẻ, tâm tình riêng tư,
mà vẫn đủ để hướng người tiếp nhận vào
mục đích mong muốn. Những phẩm chất
được nhóm này chia sẻ cũng không khoa
trương, hoàn mỹ hoặc quá cá tính, gây
tranh luận, bởi cái họ hướng đến là tạo uy
tín, tăng sức lôi kéo, hình tượng phải khiến
người tiếp nhận có thể tin được, như 2A là
người dùng mạng xã hội để kinh doanh.
Ngoài ra, cũng vì mạng xã hội phục vụ
nhu cầu giải trí, giao lưu của giới trẻ mà
người dùng mạng có xu hướng thích những
điều vui vẻ, nhẹ nhàng, tạo không khí tươi
trẻ và khơi gợi cảm hứng. Bộc lộ mặt hài
hước, sôi nổi của mình trên mạng phần
nào đó cũng là để đáp lại “thị hiếu” này.
Đối tượng 1C ít có điều kiện giao tiếp xã
hội trong đời thực. Cô cho biết bình thường
mình cũng có tính hài hước, nhưng nhiều
khi vì công việc và việc nhà mà bộc lộ sự
khắt khe, nguyên tắc, thẳng tính nhiều hơn.
Khi lên mạng, 1C trở nên vui tính, nhiệt
tình hơn, điều đó đem lại sự thoải mái, hài
lòng về bản thân, khiến cô muốn thể hiện
mình trên mạng xã hội nhiều hơn. Đối
tượng 1D cũng cảm thấy dễ dàng cởi mở
và năng động, hài hước hơn khi ở trên
mạng do mạng internet có nhiều cách thức
biểu đạt mới lạ, hấp dẫn và mang tính giải
trí cao so với đời thực: sử dụng ảnh và
avatar (hình đại diện), chia sẻ sở thích và
trao đổi hội nhóm.
Với nhóm có nhu cầu khẳng định cái
tôi riêng trước cộng đồng, hình ảnh độc
đáo cá t nh và dễ gây thiện c m được ưu
tiên thể hiện. Đối tượng 2C mong muốn
xây dựng hình ảnh toàn diện, hoàn mỹ về
mình nên chọn mặt tính cách tích cực và dễ
tạo cảm tình cho người khác: “đáng yêu, dễ
thương, chân thật, tình cảm”. Phẩm chất
“tốt bụng, tình cảm” cũng là mô tả của các
đối tượng 2C, 2D, những người thích nổi
tiếng, thích được khen ngợi hoặc có người
hâm mộ. Mặt tính cách khác được nhắc tới
là sự “hiểu biết, sâu lắng”, cũng là một đặc
trưng gia tăng uy tín về mặt trí tuệ, được
bắt gặp ở những đối tượng có nhu cầu
quảng bá, lôi kéo người khác vào mạng xã
hội của mình. Đối tượng thích chứng tỏ
bản sắc riêng không thua kém bạn bè, thích
được ngưỡng mộ và khen ngợi như 2D còn
thể hiện bản thân một cách đa chiều, phức
hợp nhiều mặt tính cách và phẩm chất
ngược nhau, ví dụ “sôi nổi, tình cảm, sâu
lắng, cá tính”, đồng thời không ngại bộc lộ
những mặt tính cách dễ gây chú ý: “nói
chuyện hay, hay soi mói”. Sự bộc lộ cái tôi
đa chiều như vậy có hiệu quả thu hút và
làm vừa lòng nhiều dạng đối tượng giao
tiếp khác nhau trên mạng.
2.2. D a theo tính n ng của mạng xã hội
Do tính chất ẩn danh và liên lạc từ xa,
mạng xã hội được coi là thế giới “ảo”, khó
kiểm chứng, khó biết thực hư. Hình ảnh cái
tôi được cộng đồng mạng hướng đến cũng
xoay quanh trục giá trị thật – giả, bởi vậy
“đáng tin cậy – bí ẩn” là một cặp đặc
trưng của bản sắc cá nhân trên mạng xã
hội. Một ví dụ, đối tượng 2A mở dịch vụ
kinh doanh, cô sử dụng mạng xã hội với
mục đích tự giới thiệu và tạo thân thiết với
khách hàng, bởi vậy so với vô vàn các
quảng cáo nói quá, nói sai sự thực hoặc
không có đối chứng, không bảo đảm trên
mạng, 2A nhấn mạnh sự khác biệt của
mình nằm ở chính sự chân thành, thật thà
và đáng tin.
Cũng do tính chất ẩn danh của mạng
xã hội, sự thể hiện cái tôi có thể dễ dàng
hơn, mạnh dạn hơn. Giới trẻ, đặc biệt là
nhóm dưới 24 tuổi, bày tỏ rằng trong thế
74
giới mạng không ai biết mình là ai, điều đó
cho họ cảm giác tự tin khoe cá tính riêng,
thậm chí trong những hoàn cảnh không liên
hệ với đời thực, họ muốn nói sao cũng
được. Với những người trẻ này, mối lo ngại
cái tôi riêng có thể ảnh hưởng tới cuộc
sống và công việc trở thành một trở ngại,
ngăn cản không cho họ bộc lộ hết cá tính
của mình trong đời sống thực. Nhưng thế
giới mạng, với tính chất ẩn danh, trở thành
nơi mở khóa, cho họ cảm giác an toàn để
trưng ra những mặt ít thể hiện của bản
thân. Tính chất ẩn danh và tính giải trí của
mạng xã hội gỡ bỏ áp lực va chạm lợi ích
trong đời thực. Tình huống này được bắt
gặp ở các đối tượng 2C, 2D – những đối
tượng thường xuyên dùng mạng xã hội tiếp
xúc với các mối quan hệ không liên hệ đời
thực. Mặt khác, tính chất ẩn danh và kết
nối mở của mạng xã hội đưa đến mối lo
ngại khác, như đối tượng 1A chia sẻ: nhiều
người sử dụng mạng xã hội khác có thể vào
đọc thông tin về mình, trong khi mình
không thực sự biết họ là ai, có quen biết,
liên hệ với cuộc sống thực của mình không.
Do đó, sự bộc lộ bản thân trên mạng có lúc
phải kín đáo, dè chừng, kiểm soát thông tin
cẩn thận. Như thế, “bạo dạn – khép kín”
là một cặp đặc trưng khác của bản sắc cá
nhân trên mạng xã hội.
Với chức năng giao tiếp, liên lạc từ xa
của mạng xã hội, người dùng có xu hướng
tạo dựng hình ảnh bản thân sao cho thu
ngắn khoảng cách với người giao tiếp. Vì
đặc tính giao tiếp của mạng xã hội thường
là không trực tiếp, không đối diện, không
tận dụng được ngôn ngữ biểu cảm phong
phú của cơ thể nên khi muốn tạo sự kết nối
thân tình với người khác, người sử dụng có
xu hướng nhấn mạnh vào những phẩm chất
“thân thiện, dễ gần” của bản thân, như
một cách trở nên cởi mở và qua đó, kéo
gần khoảng cách, dễ tạo mối thân thiết với
người khác hơn. VD: đối tượng 1C chia sẻ
muốn tạo hình ảnh “dễ gần” như một phần
tính cách trên mạng để sự kết nối với bạn
bè thêm thân tình, dễ tiến tới sự tin tưởng.
Tính chất chủ động, độc lập của việc
đăng tải thông tin cho phép người dùng
mạng suy nghĩ kỹ lưỡng, tự do chọn lựa
những mặt tính cách mình mong muốn thể
hiện. Đối tượng 1A thể hiện cái tôi như
một thói quen, tuy vậy cô cho biết chính vì
quen bộc lộ cảm xúc riêng tư, thậm chí
những cảm xúc buồn chán tiêu cực trên
mạng mà có khi gặp rắc rối, do vậy mỗi lần
biểu đạt cảm xúc trên mạng, cô phải cố
gắng chọn lọc, kiềm chế mình để không
bộc lộ quá tiêu cực, quá riêng tư. Người
dùng mạng xã hội để kinh doanh như 2A
cũng tương tự, thể hiện bản sắc bằng
những phẩm chất ưu tú, tốt đẹp và dễ tạo
thiện cảm với người khác nhất, qua sự
chọn lọc này mà hiệu quả tạo dựng lòng tin
và thu hút người khác dễ hơn. Vậy nên,
bản sắc của người dùng mạng xã hội nhiều
khi là một bản sắc chọn lọc.
Hình thức giao tiếp của mạng xã hội là
không phải trực diện đối mặt. Điều này được
nhiều người dùng mạng xã hội cho rằng giúp
dễ thổ lộ cảm xúc, dễ đưa ra ý kiến hơn ngay
cả khi tiếp xúc với người quen thân, có ảnh
hưởng đến đời sống thực. Hình thức giao tiếp
không bị cắt ngang bởi phản ứng của người
đối diện, không phải ngay lập tức phản hồi và
tranh luận cũng cho phép người dùng mạng tự
tin, chủ động hơn để bộc lộ phần ít dám thể
hiện hoặc ít có hoàn cảnh thể hiện của bản
thân. Ví dụ, 1B, 1D bộc lộ sự ham mê sở
thích riêng trên mạng. Hình thức giao tiếp
gián tiếp của mạng xã hội dường như giúp
giới trẻ dễ bộc lộ góc khuất, tiềm năng của
mình hơn. Cũng bởi lý do này mà ở nhiều bạn
trẻ (thường ở độ tuổi chưa trưởng thành, dưới
25 tuổi), mạng internet trở thành chỗ giải
phóng những góc khuất hoặc phần tính cách
không được phép thể hiện ở nơi khác. Vì tính
chất “tự do hiếm hoi” này nên nhiều khi sự
bộc lộ trở nên cường điệu, thái quá và lạ kì, ví
dụ thích thể hiện cá tính độc đáo, kì dị, xây
75
dựng hệ quan điểm riêng, phản bác quan niệm
truyền thống...
Tính chất giao tiếp một chiều, một nguồn
phát gửi đến nhiều kênh tiếp nhận khiến sự
thể hiện bản sắc của một người cũng đa dạng,
nhiều mặt. 2D thể hiện nhiều mặt tính cách
trên mạng xã hội, như “sôi nổi, tình cảm, sâu
lắng, cá tính”. Những mặt tính cách này có thể
mang biểu hiện đối ngược nhau, nhưng lại có
sức thu hút, đồng tình từ nhiều kiểu đối tượng
khác nhau. Ví dụ “sôi nổi, cá tính” là tính
cách thu hút những người thích vui vẻ hoặc
mạnh mẽ, phá cách, còn “tình cảm, sâu lắng”
lại dễ tìm được đồng cảm ở người mềm dẻo,
nội tâm, thích suy nghĩ hơn. Sự thể hiện một
cái tôi đa dạng có thể là cách người dùng
mạng xã hội tăng cường khả năng kết nối với
nhiều người hơn trên thế giới mạng.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA HÌNH TƯỢNG
CÁ NHÂN TRÊN MẠNG XÃ H I
TRONG ĐỜI S NG THỰC
Từ những phân tích trên, có thể thấy
giới trẻ đã tìm được một cách thức mới mẻ
để bộc lộ bản sắc và xây dựng hình tượng
cho mình. Cách phô diễn bản sắc trên
mạng xã hội phần lớn chi phối bởi tính chất
“ảo” của không gian internet. Nhưng từ
trong thế giới “ảo” đó, vẫn thấy được
những hậu quả tiềm ẩn của sự va chạm
giữa hình tượng “ảo” và thế giới “thực”.
Hình tượng cá nhân của giới trẻ không
thể hoàn toàn “ảo”, bởi người dùng trên
mạng vẫn là một thành viên của xã hội
thực, và mạng xã hội cũng chịu sự chi phối
của một số yếu tố trong xã hội thực:
Ý kiến, đánh giá của cộng đồng mạng và
của người quen biết là yếu tố ảnh hưởng khá
lớn với người sử dụng. Những người có giao
lưu trên mạng kéo dài sang đời thực cho rằng
đánh giá của bạn