Hồ Chí Minh, người khai sáng nền giáo dục dân chủ mới

TÓM TẮT Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà văn hoá lớn. Đối với Việt Nam, Người còn là một nhà giáo dục lớn. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc tổ chức giáo dục, đào tạo con người; mong sao cho họ có một cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn; và qua đó, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn, góp phần xây dựng thế giới hạnh phúc, tiến bộ. Nền giáo dục Việt Nam ngày nay đạt được những thành tựu to lớn cũng là nhờ bao công lao gầy dựng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì chính Người đã khai sáng nền giáo dục dân chủ mới nước nhà.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hồ Chí Minh, người khai sáng nền giáo dục dân chủ mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011 7 HỒ CHÍ MINH, NGƯỜI KHAI SÁNG NỀN GIÁO DỤC DÂN CHỦ MỚI VÕ VĂN LỘC (*) TÓM TẮT Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà văn hoá lớn. Đối với Việt Nam, Người còn là một nhà giáo dục lớn. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc tổ chức giáo dục, đào tạo con người; mong sao cho họ có một cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn; và qua đó, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn, góp phần xây dựng thế giới hạnh phúc, tiến bộ. Nền giáo dục Việt Nam ngày nay đạt được những thành tựu to lớn cũng là nhờ bao công lao gầy dựng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì chính Người đã khai sáng nền giáo dục dân chủ mới nước nhà. ABSTRACT President Ho Chi Minh is a man of great culture. For the Vietnamese people, he is also a great educator. He spent all his life devoting his time to the people’s education and training with a wish that they would enjoy a better life and that our country would become richer; thus contributing to the building of a happy and progressive world. Thanks to His devoted efforts in education, Vietnam has gained great achievements in democratic education. 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT NỀN GIÁO DỤC DÂN CHỦ MỚI ĐƯỢC HÌNH THÀNH TRƯỚC KHI THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.(*) Trong thời gian bôn ba hoạt động ở Pháp và các nước khác, gắn liền với những đấu tranh cho lí tưởng độc lập tự do của Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc luôn mơ ước cho nước nhà sớm có được một nền giáo dục dân chủ, tự do, trong đó, trường học được mở mang, tổ chức được nhiều nơi xem sách báo cho con em công nhân và nông dân. Năm 1919, Người đã cùng với nhóm thanh niên yêu nước viết gửi Hội nghị Versaille bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”. Một trong tám điểm của Yêu sách (*) TS, Trường Đại học Sài Gòn là: “Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ” (1, 435). Những năm 1923-1924, trong bản thảo bằng tiếng Pháp tác phẩm Đông Dương (1923-1924), lưu tại Kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã viết hàng loạt bài tố cáo đanh thép tội ác của chính sách thực dân, trong đó có bài Chính sách ngu dân. “Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược – người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ 8 làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc. Điều gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người ta cấm học sinh đọc tác phẩm Huygô và Mongtexkiơ. Nói tóm lại, trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó” (1, 399-400). Năm 1925, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản lần đầu tại Paris giúp chúng ta nhận ra lần nữa, một Nguyễn Ái Quốc - chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh chống lại mọi áp bức bất công của thực dân Pháp đối với Việt Nam và Đông Dương lúc bấy giờ. Trên lĩnh vực giáo dục, Người đã dành nhiều đoạn, nhiều trang tố cáo đanh thép “chính sách ngu dân” của chúng: “Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lí bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học” (2, 36). Những bất công, thối nát diễn ra khắp nơi trên đất nước thuộc địa, cả những lĩnh vực mà dân chủ và bình đẳng tưởng như cần phải được thực thi trước hết để đánh bóng cho cái chiêu bài “khai hoá” của chúng: “Có những thanh niên bản xứ đã học các trường đại học của chính quốc, đỗ bác sĩ y khoa hay tiến sĩ luật khoa thế mà vẫn không được làm nghề nghiệp của mình trong nước mình, nếu không vào quốc tịch Pháp. Mà ai cũng đã biết, một người bản xứ muốn được nhập quốc tịch Pháp như vậy thì phải vượt qua bao nhiêu khó khăn và tốn bao nhiêu công chạy vạy nhục nhã” (2, 85). Nguyễn Ái Quốc viết: “Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để”. Và Người đã dành một chương “Chính sách ngu dân” (chương IX), để tố cáo: “Nhân dân Đông Dương khẩn khoản đòi mở trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng. Mỗi năm, vào kì khai giảng, nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi thần thế, có khi chịu trả gấp đôi tiền nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học. Và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường” (2, 98). Bằng phương pháp tư duy khoa học, Người đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng trên: “Người ta bảo ngân sách không cho phép chính phủ mở trường mới. Không hẳn thế đâu. Trong số 12 triệu đồng của ngân sách Nam Kỳ, thì 10 triệu đã tìm đường chui sâu vào túi các ngài viên chức rồi” (2, 99). “Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”, là câu tố cáo khái quát bản chất thâm độc của chính sách thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được in trong tác phẩm “Đường cách mệnh” đã thể hiện cơ bản những quan điểm về đường lối cách mạng của Người nhằm chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ 9 chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người kêu gọi giai cấp công nhân Việt Nam đứng ra thành lập Công hội của mình, thực hiện các bước công tác tổ chức Công hội, trong đó có việc nộp hội phí để “góp gió làm bão”. Người khuyên: “Khi hội có tiền thừa thãi, thì nên làm những việc này: 1. Lập trường học cho công nhân 2. Lập trường học cho con cháu công nhân 3. Lập nơi xem sách báo 4. Lập nhà thương cho công nhân(2, 307). Đối với giai cấp nông dân, Người đưa ra gợi ý thành lập hội dân cày. Trong những công việc tổ chức và hoạt động của hội viên hội dân cày, Người đặc biệt chú ý đến việc phải “Hết sức mở mang giáo dục, như lập trường, tổ chức nhà xem sách, v.v” (2, 310). Người chỉ ra rằng, “Tây nó áp bức ta vì ta không thương yêu nhau, vì ta ngu dốt”. Nên từ nay: “Có hội hè rồi trước là có tình thân ái, sau thì khuyên nhau học hành. Chúng ta đã biết “cách mệnh” tinh thần, “cách mệnh” kinh tế, thì “cách mệnh” chính trị cũng không xa” (2, 312). Sau quyển Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục dùng ngòi bút sắc bén của mình để vạch trần và phê phán trước công luận những hành động phi dân chủ của chế độ thực dân. Người viết: “Trong khi bóc lột người bản xứ, bọn đế quốc Pháp lại cho là chúng đang đem lại sự giáo dục và dân chủ cho họ” (2, 343). Người chỉ ra rằng: với 20 triệu dân (năm 1926) mà Đông Dương chỉ có được 3.395 trường học với chưa đầy 214.000 học sinh: Chính phủ thuộc địa cố tìm mọi cách để cản trở phong trào giáo dục bằng cách đóng cửa các trường tư hoặc cấm người bản xứ không được tổ chức các trường tư mới. Người mỉa mai một chính sách giáo dục “dân chủ” mà thực dân đã áp dụng: “Còn đây là “dân chủ”: Một giáo viên bản xứ lĩnh 555 phrăng và một giáo sư người bản xứ lĩnh 1.200 phrăng mỗi tháng, còn một giáo viên người Pháp lại lĩnh những 3.750 phrăng và một giáo sư người Pháp lĩnh 6.000 phrăng mỗi tháng, đấy là chưa kể mọi thứ phụ cấp mà chỉ riêng giáo viên và giáo sư người Pháp mới được hưởng” (2, 344). Nhân sự kiện ngày 15 tháng 2 năm 1927, Chính phủ Trung Hoa dân quốc ban hành quyết định xóa bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử và những khoản dự chi cho những nghi lễ ấy cũng như những đền thờ Khổng Tử sẽ được dùng làm các trường học công, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán: “Với việc xóa bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, chính phủ Trung quốc làm mất đi thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc tác phẩm của Lênin”. (2, 454) Trong thời gian hoạt động ở nước ngoài, trước khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã nghĩ đến một nền giáo dục tự do, dân chủ, trong đó có việc tự do học tập, tự do mở trường, phát triển việc đọc sách báo, bình đẳng trong quyền lợi của giáo viên Đó là những lí tưởng cao cả đã được hình thành khá sớm ở người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc. 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NỀN GIÁO DỤC DÂN CHỦ MỚI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945) Trong những văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi Đảng 10 mới ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã cùng các đồng chí của mình khẳng định một số quan điểm lớn có giá trị khai sinh một nền giáo dục mới cho đất nước. Người viết trong Chánh cương vắn tắt của Đảng: “Về phương diện xã hội thì: a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền. c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá. Trong Lời kêu gọi gia nhập Đảng có phác thảo 10 chương trình hành động trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục; trong đó, chương trình thứ 8 là Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân, thứ 9 là Thực hành giáo dục toàn dân, thứ 10 là Thực hiện nam nữ bình quyền (3, 10). Nhằm tiếp tục chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám và cho sự ra đời của nhà nước mới, nền giáo dục mới, trong bài “Mười chính sách của Việt Minh” viết năm 1941, người khẳng định những quyền tự do căn bản của công dân Việt Nam, trong đó có quyền tự do học tập, quyền được hưởng các chính sách xã hội: ...“Hội hè, tín ngưỡng, báo chương, Họp hành, đi lại, có quyền tự do”. ...“Thanh niên có trường học nhiều, Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho”. ...“Trẻ em, bố mẹ khỏi lo, Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy” (3, 205-206). Những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, dù trong những điều kiện hết sức khó khăn phải giữ bí mật trong việc ăn, ở, đi lại và giao tiếp với người địa phương, Nguyễn Ái Quốc vẫn thể hiện được bản lĩnh và tác phong của người chiến sĩ cách mạng luôn quan tâm tới công tác giáo dục, tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Lúc nào và ở đâu, Người cũng thể hiện hình ảnh của người cán bộ: “Đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. Đó là hình ảnh của: - Đồng chí Vương ở Quảng Châu, luôn yêu thương đồng chí, tận tụy vì công việc, quan tâm tổ chức huấn luyện cho học viên nắm được lí thuyết về con đường cách mạng mới, kết hợp với việc tổ chức cho học viên thực hành, tham quan thực tế. - Một Thầu Chín chủ động tạo ra môi trường giáo dục, linh hoạt trong các hình thức tổ chức tuyên truyền, thể hiện thái độ ân cần gợi mở, giúp đỡ người học và nêu gương vượt khó vì lí tưởng cao cả. - Hoặc là hình ảnh của một hiệu trưởng sáng lập và điều hành nhà trường cách mạng giữa rừng Pắc Bó ở thời kì đầu cách mạng. Chính tại nơi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bộc lộ trí tuệ và tư duy sư phạm sáng tạo độc đáo của mình: + Thông qua dạy chữ mà tuyên truyền, đào tạo cán bộ. Muốn nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, trước hết phải nâng cao trình độ học vấn cho họ. + Phát triển phong trào cách mạng đến đâu cần tổ chức lớp học văn hoá ngay đến đó. + Cái chính vẫn phải là tự học, tự rèn luyện; không được thỏa mãn với việc học của mình. Học trong quần chúng, học lẫn nhau và học bằng sách báo. + Việc chọn người học chữ, học làm cách mạng lúc bấy giờ là việc lớn có ảnh hưởng đến vận mệnh của quốc gia. Bác có sự cân nhắc trên cơ sở tin và dùng người, nhờ vậy xây dựng được một đội ngũ cán bộ trung kiên, tạo động lực thành công của cách mạng. Người cán bộ cách mạng lúc bấy giờ cũng đồng thời là nhà giáo dục của chế độ mới, vì vậy, Bác luôn thể hiện một phong cách dân chủ trong giao tiếp, quan hệ; nhất 11 quán giữa lời nói với việc làm, tỏ thái độ ân cần chăm lo vì sự tiến bộ của người học, hướng họ đến những lí tưởng cao cả. Trong giai đoạn tuyên truyền giáo dục, củng cố và phát triển lực lượng để thành lập Đảng và chuẩn bị giành chính quyền, giữa bộn bề công việc, Bác Hồ vẫn luôn quan tâm đến giáo dục và tạo điều kiện thể hiện tốt nhất sự quan tâm đó trong các Nghị quyết Đảng, các tác phẩm chính trị, trong các bài nói, bài viết và cả trong tác phong sinh hoạt hằng ngày. Nhờ thế, tư tưởng về dân chủ trong giáo dục bước đầu được thể hiện và kiểm nghiệm, tạo tiền đề thuận lợi để phát triển sau này. 3. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NGƯỜI KHAI SÁNG VÀ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC DÂN CHỦ MỚI VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945 - 1969) Với Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời khai sáng nền giáo dục dân chủ mới Việt Nam, hủy bỏ hoàn toàn chính sách giáo dục ngu dân, một kiểu giáo dục “xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát” của Đế quốc Pháp đã áp dụng cho Việt Nam và Đông Dương trước đó. Nền giáo dục dân chủ mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sáng là nền giáo dục cách mạng thể hiện ở chỗ đó là nền giáo dục toàn dân, nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Mang tính chất của một nền giáo dục dân chủ mới, nền giáo dục Việt Nam ngay từ đầu đã thi hành lệnh “Bắt buộc học chữ Quốc ngữ để chống nạn mù chữ đến triệt để”. Có thấm thía nỗi nhục nhã của một dân tộc mất nước, một dân tộc yếu, mới hiểu hết giá trị của việc cưỡng bách học chữ Quốc ngữ. Những điều này, về sau, người có dịp lí giải: “Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, năng lực tổ chức cuộc sống mới”. Đất nước được độc lập, tự chủ thì mọi công dân cần phải học để có đủ năng lực làm chủ đất nước, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới, đó là lẽ đương nhiên. Mà đây cũng mới chỉ là một trong nhiều việc cụ thể Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã làm lúc bấy giờ để thực sự xóa bỏ ảnh hưởng của giáo dục thực dân và xây dựng một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. Theo chỉ thị của Người, Bộ Giáo dục ra tuyên bố nêu rõ mục đích, phương pháp và tổ chức của nền giáo dục mới: - Mục đích của nền giáo dục dân chủ mới: “Tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng của mọi người để phụng sự đoàn thể và góp phần vào cuộc tiến hoá chung của nhân loại”. - Phương pháp của nền giáo dục dân chủ mới: “Xóa bỏ lối học nhồi sọ, hình thức, chú trọng phần thực học, phần học chuyên môn nghề nghiệp chiếm một địa vị quan trọng, hết sức đề cao tinh thần khoa học, phát triển óc phê bình, óc phân tích và tổng hợp, tinh thần sáng tạo và óc thực tế”. - Về tổ chức, “nền giáo dục mới là một nền giáo dục duy nhất chung cho toàn thể nhân dân” (5, 710) Tóm lại đó là một nền giáo dục: - “Dân chủ hoá về mục tiêu phát triển. - Dân tộc và đại chúng hoá về tổ chức đào tạo. - Nhân văn hoá về nội dung đào tạo. - Khoa học hoá về phương pháp đào tạo. - Xã hội hoá về quản lí đào tạo” (5, 711). Đối với nhà trường, Người khẳng định tính chất của nhà trường Việt Nam: “Trường học của ta là trường học xã hội chủ nghĩa 12 Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường: - Học đi với lao động. - Lí luận đi với thực hành. - Cần cù đi với tiết kiệm” (4, 294) Vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất mà Người hằng quan tâm chỉ bảo là vấn đề con người: hoàn thiện con người thông qua tổ chức giáo dục và tự giáo dục: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. “Vì lợi ích mười năm trồng cây vì lợi ích trăm năm trồng người”. Đặt mục tiêu con người lên trên hết, nền giáo dục mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn đạt tới là nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của học sinh Việt Nam, nền giáo dục làm phát triển ở học sinh cả tài lẫn đức, trong đó coi trọng cái đức, cái nhân cách con người. Để việc giáo dục hoàn thiện con người đạt được hiệu quả, Người chỉ ra cơ chế tổ chức thực hiện các mối quan hệ trong nhà trường. Cơ chế đó là: “Trong trường, cần có dân chủ”. Trường học có dân chủ thì học sinh mới hăng hái học tập, từ đó mà đi đến thông suốt mọi vấn đề của sự học. Thông suốt không chỉ là mục tiêu của sự học mà còn là một mục tiêu quan trọng của công tác quản lí nhà trường, quản lí ngành giáo dục. Hăng hái và thông suốt là một dấu hiệu bản chất của đời sống dân chủ trong ngành giáo dục, hoàn toàn khác với chính sách giáo dục ngu dân mà thực dân Pháp đã áp đặt cho nước ta trước đó. 4. TOÀN DÂN RA SỨC KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, TỪNG BƯỚC CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC NƯỚC NHÀ Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nền giáo dục cách mạng Việt Nam được hình thành và bắt đầu chuyển biến mạnh theo hướng “Nền giáo dục dân chủ mới - một sản phẩm vô giá của Cách mạng Tháng Tám, là nền giáo dục dân chủ của nhân dân, lấy dân làm gốc và vì dân” (6, 1991). Vượt qua nhiều giai đoạn gian nan thử thách của thời kì đầu thành lập Nhà nước mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn dân ra sức khắc phục khó khăn, từng bước củng cố và phát triển nền giáo dục nước nhà. Hội nghị Giáo dục toàn quốc lần thứ hai, tháng 7 năm 1951, trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá một năm triển khai cải cách giáo dục, đã thẳng thắn nhìn nhận: “Sau khi đã đem chương trình mới áp dụng trong niên học vừa qua, các giáo viên đều nhận thấy là nó có thấm nhuần tinh thần dân chủ” (7, 11/ 2003). Ở Nam Bộ, tháng 8 năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ ra Quyết định thành lập Sở Giáo dục Nam Bộ và Viện Văn hoá kháng chiến Nam Bộ. Hai cơ quan này làm nhiệm vụ kháng chiến trên mặt trận văn hoá giáo dục ở một miền đã chịu ảnh hưởng nặng nề của chính sách văn hoá giáo dục ngu dân, nô dịch của thực dân Pháp. Trong các trường văn hoá kháng chiến, sư phạm kháng chiến ở Nam Bộ lúc bấy giờ đã hình thành một lớp thầy giáo và học sinh, học viên với tinh thần tự quản làm chủ nhà trường, tinh thần cùng ăn cùng ở, cùng chung trách nhiệm đối với nhà trường, đối với sự nghiệp giáo dục. Thành tựu của giáo dục trong giai đoạn này cho thấy có sự quán triệt sâu sắc và sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền giáo dục dân chủ song song với việc xây dựng nhà nước cách mạng kiểu mới. GS VS Phạm Minh Hạc viết: “Tính đại chúng của nền giáo dục cũng đồng nghĩa với tính dân chủ, được thực hiện từng bước. Đó chính là thực hiện giáo dục như 13 một trong các quyền cơ bản của con người. Và ngược lại, chính nhờ đại chúng hoá mà nền giáo dục lại tạo ra động lực mới cho phát triển giáo dục, văn hoá, khoa học, kinh tế, xã hội” (8, 114). Thành tựu của giai đoạn 1954-1975 cũng trên cái nền của phương châm giáo dục dân tộc, khoa học và đại chúng đã được xác lập trước đó cộng thêm với sức mạnh của niềm tin xây dựng chế độ mới và đấu tranh thống nhất nước nhà; vì thế, nền giáo dục dân chủ mới có thêm cơ hội thấm sâu và phát triển mạnh mẽ trong lòng dân tộc. Nhận định về tình hình giáo dục giai đoạn này, Vũ Ngọc Khánh viết: “Ít có một nước nào trên trái đất này, từ hoàn cảnh nông nghiệp lạc hậu, bị chà đạp dưới gót sắt thực dân, r
Tài liệu liên quan