Tóm tắt
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam là bộ phận tư tưởng hạt nhân, mấu chốt trong hệ thống tư tưởng của Người.
Đó là di sản vô cùng quý báu của dân tộc ta. Trong bài viết, tác giả tập trung góp
phần làm rõ một số nội dung cơ bản của sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó góp phần khắc họa
rõ nét chân dung, tầm vóc tư tưởng, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
201|
HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỀ VẦN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
ThS. Vũ Thị Bích Hạnh
Trường Đại học Nha Trang
Tóm tắt
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vần đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam là bộ phận tư tưởng hạt nhân, mấu chốt trong hệ thống tư tưởng của Người.
Đó là di sản vô cùng quý báu của dân tộc ta. Trong bài viết, tác giả tập trung góp
phần làm rõ một số nội dung cơ bản của sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó góp phần khắc họa
rõ nét chân dung, tầm vóc tư tưởng, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ khóa: Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, cách
mạng Việt Nam.
I. MỞ ĐẦU
“Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải
theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác -
Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Ngƣời không bao giờ coi chủ nghĩa Mác - Lênin là
“cái gì đã xong xuôi hẳn”, là “đơn thuốc vạn năng”, mà nhƣ Ngƣời nói: “Dù sao thì
cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đƣa thêm
vào đó những tƣ liệu mà Mác ở thời mình không thể có đƣợc. Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhƣng lịch sử nào? Lịch sử châu
Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chƣa phải là toàn thể nhân loại”1. Và thành công vang dội
của cách mạng Việt Nam là minh chứng rõ nét nhất cho sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.509-510.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|202
II. NỘI DUNG
2.1. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn
đề dân tộc
Thứ nhất, giải quyết hài hòa, nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp.
Khi xác định đối tƣợng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy sự phân hóa giai
cấp ở các nƣớc thuộc địa nói chung, ở Việt Nam nói riêng có những điểm khác với các
nƣớc phƣơng Tây. Mâu thuẫn chủ yếu ở các nƣớc phƣơng Tây là mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tƣ sản, mâu thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phƣơng Đông lại là
giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân; do vậy, cuộc đấu tranh giai cấp không
giống nhƣ các nƣớc phƣơng Tây. Đối tƣợng cách mạng mà các dân tộc thuộc địa cần
tập trung đánh đổ không phải là giai cấp tƣ sản bản xứ, càng không phải là giai cấp địa
chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn đặc điểm xã hội Việt Nam, xác định đúng đối tƣợng
chính của cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo trong giải quyết mối quan
hệ dân tộc và giai cấp. Nếu nhƣ chủ nghĩa Mác - Lênin đề cao đấu tranh giai cấp thì
Nguyễn Ái Quốc đặt ƣu tiên hàng đầu cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giành
độc lập, tự do cho đất nƣớc.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp với vấn
đề dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. Ngƣời cho rằng giải quyết vấn
đề dân tộc phải đặt trên lập trƣờng giai cấp tiến bộ, cách mạng; song với điều kiện cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa Việt Nam phải “đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích
giai cấp, lấy mục tiêu độc lập dân tộc làm mục tiêu hàng đầu”. Khẳng định tính dân tộc
nổi trội hơn tính giai cấp là tƣ tƣởng đúng đắn, sáng tạo phản ánh đúng tình hình thực
tế Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc thuộc địa nói chung. Đó là một trong các sáng tạo nổi
bật của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Thứ hai, xác định cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là độc lập dân tộc, đặt vấn
đề giành độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu.
Chủ nghĩa Mác - Lênin tập trung đến đấu tranh chống chủ nghĩa tƣ bản, chủ
nghĩa đế quốc, đấu tranh giai cấp; Hồ Chí Minh tập trung đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, giải phóng thuộc địa. Ngƣời quan tâm vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở
thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức,
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
203|
bóc lột của nƣớc ngoài, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết, thành lập nhà nƣớc dân tộc độc lập.
Dƣới ánh sáng chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận định: Thứ nhất, khi phân
chia các loại cách mạng, nếu lấy tƣ tƣởng làm tiêu chí thì có ba loại: tƣ bản cách mạng,
dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng; nếu lấy mục tiêu của từng dân tộc và nhân loại
thì có hai loại: dân tộc cách mạng và thế giới cách mạng. Thứ hai, lý luận do phân tích
kinh nghiệm cách mạng ở các nƣớc và trong nƣớc ta từ trƣớc đến nay kết luận thành.
Vì vậy, “Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc nhƣ con vẹt “Vô sản thế giới liên
hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải ở đâu ngƣời ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xô
viết”2. Nếu thấy ngƣời ta làm thế nào mình cũng bắt chƣớc một mực làm theo thế ấy,
thì đó vừa là lý luận suông, vô ích, vừa chƣa biết khéo lợi dụng kinh nghiệm: “nghe
ngƣời ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không
xét hoàn cảnh nƣớc mình nhƣ thế nào để làm cho đúng”3.
Những nhận thức trên giúp chúng ta hiểu vì sao đối với dân tộc Việt Nam thì
trƣớc hết phải giành cho kỳ đƣợc độc lập dân tộc; là phải làm dân tộc cách mạng chứ
không phải giai cấp cách mạng nhƣ Cách mạng Pháp năm 1789 hay Cách mạng Nga
năm 1917. Tƣ bản cách mạng thì phải có tƣ bản ở thành phố (tƣ bản mới) và tƣ bản ở
hƣơng thôn (địa chủ). Việt Nam chƣa đủ những điều kiện này. Đó là câu chuyện của
Pháp năm 1789, Mỹ năm 1776, Nhật năm 1864. Giai cấp cách mạng nổ ra khi giai cấp
công nhân và nông dân bị áp bức không chịu nổi, đoàn kết đánh đuổi giai cấp áp bức
mình (tƣ bản). Đó là câu chuyện của cách mạng Nga năm 1917. Dân tộc cách mạng là
khi “bọn cƣờng quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, nhƣ Pháp với An Nam. Đến khi
dân nô lệ ấy không chịu nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết đƣợc tự
do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình”4.
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta phải làm dân tộc cách
mạng là vì mâu thuẫn dân tộc giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam sống thân
phận nô lệ với một bên là bọn cƣớp nƣớc là mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu của xã
hội Việt Nam thuộc địa. Giải quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập, tự do là nhiệm
vụ hàng đầu, không giành đƣợc độc lập dân tộc thì không có gì hết.
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.368-369.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.312.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.286.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|204
2.2. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo về cách mạng giải phóng dân tộc
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
Tận mắt chứng kiến cảnh nƣớc mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày
5/6/1911, ngƣời thanh niên yêu nƣớc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đƣờng cứu nƣớc
mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn
ba ở nƣớc ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đi và sống ở nhiều nƣớc thuộc châu Âu, châu Á,
châu Phi, châu Mỹ, chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị đàn áp của nhân dân các nuốc
thuộc địa và Ngƣời cũng đã trực tiếp tìm hiểu đời sống của nhân dân lao động các nƣớc
tƣ bản. Ngƣời cũng đã khảo sát và tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ,
tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919), tìm hiểu cách mạng tháng Mƣời Nga. Năm 1920,
đọc Luận cƣơng của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái
Quốc đã tìm thấy con đƣờng cách mạng đúng đắn - con đƣờng cách mạng vô sản và
Ngƣời đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngƣời khẳng định: “Muốn cứu nƣớc và giải
phóng dân tộc không có con đƣờng nào khác con đƣờng cách mạng vô sản”5.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hƣớng giáo điều, nhấn mạnh một
chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế
kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hƣớng vô sản có
sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con
đƣờng cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phƣơng hƣớng chiến lƣợc của
cách mạng Việt Nam là “làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”6. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, Ngƣời dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về chủ
nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nƣớc thuộc địa, với những
tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trƣng bản chất của chủ nghĩa xã hội,
mục tiêu và bƣớc đi để đạt tới chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình cải biến cách mạng
lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đƣờng khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải
phóng con ngƣời, làm cho con ngƣời phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30.
6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
205|
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đƣờng của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận
của Hồ Chí Minh. Chính theo con đƣờng cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm
nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trƣớc quốc
dân đồng bào vào ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nƣớc Việt Nam
có quyền hƣởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nƣớc tự do độc lập”7. Với
Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân
tộc, thống nhất đất nƣớc, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt
Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa
là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con ngƣời.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trƣớc hết phải có cái gì? Trƣớc hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng nhƣ
ngƣời cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng nhƣ ngƣời không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”8. Đảng đó
phải đƣợc xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I. Lênin, đƣợc vũ trang bằng
chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu
của cách mạng, xây dựng đƣờng lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cƣơng
lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lƣợng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc
thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và
hạnh phúc cho nhân dân.
V.I. Lênin đƣa ra quan điểm Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa xã hội
khoa học và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nƣớc Việt Nam. Ngƣời nói: “Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ
7
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.3.
8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|206
nghĩa Mác - Lênin”9; “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nƣớc đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dƣơng vào đầu
năm 1930”10. Từ nhận thức đó, sau này Ngƣời khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai
cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tƣ, thiên vị”11. Sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh so với chủ nghĩa Lênin không chỉ bổ sung yếu tố phong trào yêu nƣớc vào sự ra
đời của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy phong trào yêu nƣớc có khả năng kết hợp với
phong trào công nhân, vì cả hai phong trào cùng một nhiệm vụ và mục tiêu trƣớc mắt là
chống xâm lƣợc, giành độc lập dân tộc. Sự xuất hiện một yếu tố mới là phong trào yêu
nƣớc không những không hạ thấp vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học, ngƣợc lại tỏ rõ
rằng ở các nƣớc thuộc địa nhƣ Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin có một mảnh đất màu
mỡ, “lực lƣợng vật chất” không chỉ là phong trào công nhân mà còn có cả phong trào
yêu nƣớc. Ngƣợc lại, phong trào yêu nƣớc phải đƣợc tiếp nhận lý luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin mới thành phong trào yêu nƣớc triệt để. Sáng tạo ở vế “đồng
thời là Đảng của dân tộc” ở chỗ: Cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công
nhân mà là toàn thể dân tộc; Đảng không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà vì lợi
ích cả dân tộc; Đảng không chỉ trong tim của ngƣời đảng viên đảng cộng sản, mà phải
“gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên
cơ sở liên minh công nông.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn
dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt... Trong đó, “thực hiện cho đƣợc liên
minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”12.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”13.
Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh đoàn kết và khả
năng thành công. Ngƣời chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị
9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275.
10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.406.
11
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275.
12
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.391.
13
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.119.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
207|
áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”14. Khái
niệm “dân tộc cách mệnh” trong di sản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh chứa đựng một hàm
lƣợng khoa học, sáng tạo lớn trong việc tổ chức lực lƣợng cách mạng, chính xác là xây
dựng chiến lƣợc đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức đồng
tâm hiệp lực đánh đuổi thực dân Pháp, “thà chết đƣợc tự do hơn sống làm nô lệ”15.
Ngƣời cũng luôn khẳng định tinh thần “bốn phƣơng vô sản đều là anh em”16.
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho
rằng, nông dân là những ngƣời chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ luôn có
ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc
phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Đánh giá cao
vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhƣng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp
công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên
minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ
trƣơng vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những ngƣời dân
mất nƣớc, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất,
nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế
giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực, nhân văn, hòa bình, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu
tranh vũ trang.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó,
đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”17,“ Lũ giặc cƣớp nƣớc,
chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác. Do đó, càng
gần thắng lợi thì ta càng gặp nhiều khó khăn”18. Ngƣời khẳng định: Độc lập tự do
không thể cầu xin mà có đƣợc”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân
14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.288.
15
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.286.
16
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.670.
17
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.114.
18
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.254.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|208
tộc, cũng nhƣ cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, tất
yếu phải “ đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ
chính quyền”19.
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần
yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối
truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh
chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng
nhằm mục đích hòa bình: “Vẫn biết dụng binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu
nƣớc”20. Theo Ngƣời, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ
quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không đƣợc đáp
ứng, phƣơng thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ
thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Ngƣời.
Quan điểm trên đã thể hiện tƣ duy độc lập, tự chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận
dụng sáng tạo quan điểm cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm cách
mạng thế giới, truyền thống dân tộc vào xác định phƣơng pháp cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh về
phƣơng pháp cách mạng là đúng đắn, sáng tạo.
III. KẾT LUẬN
Sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã phản ánh nguyện vọng
đƣợc sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ dân tộc Việt
Nam mà còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, nhƣ
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất