Khai thác giá trị di sản văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch ở Gia Lai

Đặt vấn đề Gia Lai là một địa phương có vị thế quan trọng trong chiến lược phát triển của khu vực Tây Nguyên và đang sở hữu nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp hùng vĩ, nhiều di tích văn hóa-lịch sử tiêu biểu, nhiều giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo trong đời sống đương đại. Những giá trị văn hóa truyền thống của 2 dân tộc thiểu số Bahnar, Jrai ở Gia Lai như: kiến trúc, trang phục, lễ hội, ẩm thực, múa, âm nhạc, điêu khắc, văn học dân gian. rất độc đáo và là nguồn tài nguyên quý giá để có thể khai thác phát triển du lịch địa phương. Hai dân tộc thiểu số Bahnar, Jrai hiện đang sở hữu một hệ thống các lễ hội gồm: bỏ mả, lễ mừng chiến thắng, lễ khánh thành nhà rông, lễ cầu an, lễ mừng lúa mới, lễ mừng sức khỏe, lễ cúng giọt nước.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 150 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khai thác giá trị di sản văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch ở Gia Lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 43 S Ố 0 5 N Ă M 2 0 18 Đặt vấn đề Gia Lai là một địa phương có vị thế quan trọng trong chiến lược phát triển của khu vực Tây Nguyên và đang sở hữu nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp hùng vĩ, nhiều di tích văn hóa-lịch sử tiêu biểu, nhiều giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo trong đời sống đương đại. Những giá trị văn hóa truyền thống của 2 dân tộc thiểu số Bahnar, Jrai ở Gia Lai như: kiến trúc, trang phục, lễ hội, ẩm thực, múa, âm nhạc, điêu khắc, văn học dân gian... rất độc đáo và là nguồn tài nguyên quý giá để có thể khai thác phát triển du lịch địa phương. Hai dân tộc thiểu số Bahnar, Jrai hiện đang sở hữu một hệ thống các lễ hội gồm: bỏ mả, lễ mừng chiến thắng, lễ khánh thành nhà rông, lễ cầu an, lễ mừng lúa mới, lễ mừng sức khỏe, lễ cúng giọt nước... Các lễ hội này có sức thu hút đặc biệt với khách du lịch và một yếu tố không thể thiếu trong các lễ hội của người DTTS tại thần và vật chất của đồng bào DTTS tại chỗ Bahnar, Jrai ở Gia Lai, cồng chiêng có tiềm năng trở thành một sản phẩm du lịch đặc trưng nếu chủ thể trình diễn nó cùng cấp ủy, chính quyền địa phương biết cách khai thác trong đời sống hôm nay của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng. 1. Di sản văn hóa cồng chiêng Gia Lai - Tiềm năng để phát triển du lịch Gia Lai là một tỉnh miền núi biên giới, nằm trong vùng tam giác phát triển của khu vực Đông Dương là Việt Nam- chỗ ở Gia Lai đó là nghệ thuật trình diễn cồng chiêng. Cồng chiêng, nghệ nhân, trang phục, các sắc thái biểu cảm, các bài chiêng buồn bã tiễn đưa trong lễ bỏ mả hay vui vẻ, hân hoan, sôi động trong các lễ mừng lúa mới, cúng giọt nước, cúng nhà rông, mừng chiến thắng... cùng nhiều yếu tố khác của lễ hội đã làm nên một Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đặc sắc được  UNESCO  công nhận là  kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại cách đây 13 năm (ngày  15 tháng 11  năm  2005). Với giá trị to lớn của nó trong đời sống tinh Khai thác giá trị di sản văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch ở Gia Lai ThS. HOÀNG THANH HƯƠNG Trung tâm Thông tin công tác Tuyên giáo Gia Lai KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ44 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Lào-Campuchia, có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng của vùng Tây Nguyên. Gia Lai có diện tích tự nhiên trên 15.536 km2; dân số toàn tỉnh trên 1,4 triệu người với 34 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 44,5%, chủ yếu là dân tộc Jrai và Bahnar có quá trình lịch sử-văn hóa lâu đời. Ở Gia Lai, tại 17 huyện, thị xã, thành phố nhiều buôn làng DTTS đồng bào Bahnar, Jrai hiện vẫn còn giữ được không gian làng truyền thống với kiến trúc nhà sàn, nhà rông, nhà mồ, còn giữ được các lễ hội dân gian cùng những nét sinh hoạt cộng đồng, còn giữ được những bộ cồng chiêng quý cùng các đội nghệ nhân cồng chiêng trẻ/già... Điều này là những điều kiện bước đầu để cấp ủy, chính quyền địa phương, các nhà đầu tư có thể chú ý đến việc chọn địa điểm, chọn loại hình di sản, chọn sản phẩm du lịch đặc trưng để đầu tư khai thác du lịch lâu dài cho địa phương. Có thể kể tên một số làng như: làng Ốp, thành phố Pleiku có không gian đẹp, ngay tại trung tâm thành phố. Làng có nghề làm rượu cần ngon, có nhà rông đẹp, đặc biệt có hai đội cồng chiêng trẻ/già một do bí thư đoàn thanh niên của làng phụ trách, một do già làng Ksor Núi làm đội trưởng. Chỉ cần có sự kiện gì, Phòng Văn hóa- Thông Trong một báo về tình hình kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, văn hóa truyền thống hai xã biên giới Ia Chía và Ia O của huyện Ia Grai, chúng tôi tổng hợp được vào năm 2016, xã Ia O có 517 bộ cồng chiêng, được coi như một hiện tượng điển hình về bảo tồn cồng chiêng; trong đó có 202 bộ chiêng quý. Rất nhiều làng có số lượng cồng chiêng lên tới 70 - 80 bộ như: làng Dăng có 86 bộ; làng Cúc có 80 bộ; làng Mít Jép có 78 bộ; làng Bi có 71 bộ; các làng Lân, O mỗi làng có 52 bộ cồng chiêng. Làng có ít cồng chiêng nhất của xã này là làng Mít Kom cũng có số lượng cồng chiêng lên tới 27 bộ. Riêng xã Ia Chiă chỉ còn 09 bộ cồng chiêng [1]. Đây mới chỉ là những số liệu về hai xã biên giới của một huyện trên địa bàn của tỉnh. Cách đây khá lâu, vào năm 2003, Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tiến hành điều tra di sản văn hóa phi vật thể trong khu vực người Jrai, thống kê được 421 nghệ nhân thuộc lĩnh vực âm nhạc dân gian. Năm 2005, điều tra trong khu vực người Bahnar, thống kê được 1.748 nghệ nhân âm nhạc dân gian, chủ yếu là sử dụng cồng chiêng. Theo thống kê năm 2008, toàn tỉnh có 5.655 bộ cồng chiêng, phần lớn là những bộ cồng chiêng có giá trị cao, trong đó, huyện Ia Grai có số lượng cồng chiêng lớn nhất (1.116 bộ/92 làng). Toàn tỉnh lúc đó tin thành phố gọi điện thông báo, lãnh đạo phường Hoa Lư thông báo là đội cồng chiêng của làng có mặt đầy đủ phục vụ các sự kiện chính trị, văn hóa, văn nghệ một cách nhiệt tình, chuyên nghiệp. Hay xa hơn là tại ngôi làng kháng chiến Stơr, thuộc xã Tơ Tung, huyện Kbang, cách thành phố Pleiku hơn 80km, cách đường quốc lộ 19 khoảng 10km, cách thị trấn Kbang 16km. Làng Stơr được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia năm 1993. Tại khu di tích hiện có nhà lưu niệm Anh hùng Núp, nhà rông của đồng bào dân tộc Bahnar, có các đội cồng chiêng và nghệ hát dân ca giỏi, làm tượng gỗ, đan lát đẹp... Làng được đầu tư tôn tạo và nằm cách không xa các điểm di tích, điểm du lịch khác như: thác Hang Dơi, hồ thủy điện Ka Nak, di tích Vườn mít-Cánh đồng Cô Hầu... nên làng Stơr có khả năng thu hút du khách đến tham quan du lịch và giao lưu cồng chiêng. Và còn nhiều những đội cồng chiêng với các các nghệ nhân giỏi, tâm huyết đang tích cực truyền nghề lại cho thế hệ trẻ trong làng mình và các làng lân cận như thế ở Gia Lai hôm nay như ở các làng “Làng Phung (Plei Phun), làng Kép (huyện Chư Păh), Làng Blôm ( huyện Ia Pa), làng Chiêng (huyện Kbang), làng Đê Ktu (huyện Mang Yang), làng Ốp (TP. Pleiku), làng Tờ Nùng (huyện Kông Chro), làng Hway (huyện Đak Pơ)”... [3]. KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 45 S Ố 0 5 N Ă M 2 0 18có khoảng 900 nghệ nhân đánh chiêng giỏi và hơn 60 nghệ nhân biết chỉnh chiêng [1]. Những con số đã cho thấy tiềm năng lớn từ di sản văn hóa cồng chiêng của hai DTTS tại chỗ Bahnar, Jrai trong khai thác phát triển loại hình du lịch văn hóa ở địa phương. Mới đây nhất, tháng 11/2018 tại Kbang - một huyện phía đông của tỉnh, nơi có người Bahnar Bơnâm sinh sống lâu đời, nơi đang còn bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS tại chỗ như nghề dệt, tạc tượng, kiến trúc, lễ hội, cồng chiêng... Chúng tôi có cuộc trao đổi với Phó phòng Văn hóa-Thông tin huyện, anh A Ngưi, anh cho biết huyện hiện còn 631 bộ cồng chiêng, 103 đội cồng chiêng với gần 2.000 nghệ nhân trẻ/già. Nhiều xã, thị trấn của huyện như: xã Đông, Kông Lơng Khơng, Tơ Tung, Lơ Ku, thị trấn Kbang trong các làng có từ 1-3 đội cồng chiêng. Người già truyền nghề cho lớp trẻ, các đội chiêng đánh rất hay, tham gia các cuộc sinh hoạt văn hóa văn nghệ cộng đồng rất đông đủ, khi tham gia những cuộc thi các đội cồng chiêng của huyện Kbang thường đạt giải cao trong tỉnh, khu vực. Trong truyền thống của cư dân bản địa Tây Nguyên, cồng chiêng không tồn tại là một loại nhạc cụ hay một phương tiện giải trí đơn thuần mà có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Cồng chiêng có mặt sớm trong hầu hết các tộc người đã cư trú lâu đời ở Tây Nguyên. Cồng chiêng là một phần máu thịt của văn hóa Tây Nguyên. Ở Gia Lai, hai DTTS tại chỗ Bahnar, Jrai đang sở hữu di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này, họ là chủ nhân của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và với họ cồng chiêng là thứ âm nhạc không thể thiếu trong các nghi lễ vòng đời. Từ khi sinh ra đến khi chết đi, tiếng cồng chiêng thấm đẫm trong tâm thức của mỗi người. Vui thì có điệu chiêng hân hoan chào đón ngày ra đời, ngày làm lễ thổi tai khi 3 tháng tuổi, ngày đầy 1 tuổi, ngày thành niên 13-14 tuổi, ngày cưới, ngày mừng sức khỏe, ngày kết nghĩa anh em, ngày có khách đến chơi thăm và buồn thì có tiếng chiêng khi ngày qua đời về với làng ma (atâu), trong lễ bỏ mả. Âm thanh cồng chiêng trong các nghi lễ cúng tế theo tín ngưỡng đa thần của người Jrai mang ý nghĩa kết nối với các đấng thần linh (Yang). Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân - Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai nó có vai trò giống như khói nhang của người Việt, tiếng chiêng vang lên, ngân xa là phương tiện để kết nối giữa con người với thần linh, mong cầu các Yang chứng giám và che chở, hỗ trợ, giúp đỡ mọi người trong làng, plei, bon, buôn mạnh khỏe, no đủ. Cồng chiêng còn kết nối mọi người trong cộng đồng với nhau khi vui lúc buồn, cứ nghe nhà nào, làng nào có tiếng cồng chiêng là đồng bào trong làng, bà con làng gần, làng xa sẽ tìm đến hoặc để chia sẻ hoặc để chung vui. Cồng chiêng là tài sản của những gia đình khá giả trong các buôn làng từ xưa đến nay. Một bộ cồng chiêng hiện tại rẻ giá cũng 40 -50 triệu đồng, đắt cũng đến 70 - 80 triệu đồng/ bộ. Đây là tài sản vô cùng quí báu của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên và có tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung cũng như du lịch nói riêng tại Tây Nguyên trong đó có Gia Lai. 2. Thực trạng Gia Lai còn là một tỉnh còn nghèo, kinh tế chậm phát triển, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 44% dân số, đời sống đồng bào trong vùng DTTS còn gặp khó khăn. Hoạt động văn hoá - thông tin còn hạn chế. Công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức, những năm gần đây “nạn chảy máu cồng chiêng” diễn ra mạnh trong các buôn làng. Gần đây, đạo Tin Lành phát triển khá nhanh, tập trung ở nhiều huyện, thị xã, của tỉnh gây khó khăn trong việc quản lý và bảo vệ nền văn hóa truyền thống. Những tôn giáo du nhập này đã tác động mạnh đến đời sống văn hóa xã hội của người Bahnar, Jrai. Các giáo sỹ đã chủ động “phá thần” trong tín ngưỡng KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ46 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G cổ truyền và tạo ra những vị thần mới. Họ đã xóa bỏ cơ sở niềm tin trong tín ngưỡng cổ truyền của đồng bào. Những người theo đạo buộc phải từ bỏ các vị thần theo tín ngưỡng ”vạn vật hữu linh” mà xưa nay họ vẫn tin theo, thờ cúng, cầu xin được phù hộ. Thay vào đó là những vị thánh thần của tôn giáo mới. Vì vậy, đồng bào đã bỏ đi nhiều phong tục tập quán của mình như: không tổ chức các lễ hội truyền thống, không tổ chức hoặc tham gia các sinh hoạt văn hóa truyền thống, không đánh chiêng, uống rượu, tạc tượng gỗ... Các lễ hội truyền thống dần được thay thế bằng các nghi lễ tôn giáo. Thay vì cúng tế là cầu nguyện...Như vậy tôn giáo đã và đang từng bước làm thay đổi toàn bộ niềm tin tín ngưỡng, phong tục tập quán của cư dân các dân tộc tại chỗ. Không còn những sinh hoạt văn hóa truyền thống thì các loại hình văn hóa văn nghệ dân gian khó có môi trường phát triển. Trong đó có trình diễn cồng chiêng. Muốn đánh được cồng chiêng thì phải học, ngoài năng khiếu bẩm sinh thì phải có sự học hỏi kiên trì. Do vậy, khi không có môi trường để trình diễn cồng chiêng, thế hệ trẻ không có cơ hội để tiếp cận, thưởng thức cái đẹp, lắng nghe thanh âm hay/đẹp thì khó nảy sinh lòng yêu thích. Do vậy, lực lượng kế cận khó được hình thành và phát triển. Sự giảm sút hoặc mất hẳn lực lượng nghệ nhân cồng chiêng trẻ trong tương lai là điều khó tránh khỏi. Sau hơn 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu từ cuộc sống hiện đại đã/đang đem lại thì những hạn chế mà nó tác động tới văn hóa cổ truyền Tây Nguyên cũng không nhỏ trong đó có việc duy trì và tổ chức các hoạt động lễ hội dân gian. Kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Đồng bào không chỉ làm lúa rẫy mà còn làm cà phê, tiêu, mía, mì, chè, điều. Nông lịch thay đổi, thời gian nông nhàn không còn. Các lễ hội diễn ra việc tổ chức càng ngày càng đơn giản, đã bớt nhiều bước từ khâu chuẩn bị, trang trí, tiến hành nghi lễ, thời gian tổ chức, ẩm thực... Đặc biệt, nghệ thuật trang trí trong các không gian lễ hội nơi các kiến trúc nhà rông, nhà mồ bị giản lược, hoa văn bị cắt bỏ nhiều, cồng chiêng, nghệ nhân và các bài cồng chiêng cũng ít được phát triển. Nhiều làng, vùng cồng chiêng bị các nhà buôn gạ ép bán với giá rẻ, trao đổi hàng hóa với giá chênh lệch thấp, bị đánh cắp. Giới trẻ trong các buôn làng thích nghi nhanh chóng với những chương trình giải trí mới trên các phương tiện thông tin hiện đại, dần không còn yêu thích âm nhạc dân tộc mình, lười học đánh cồng chiêng, tham gia các lễ hội hay hoạt động chung của cộng đồng tại làng, bon, plei. Do vậy, nhiều giá trị văn hóa, bản sắc văn hoá dân tộc ở các buôn làng Jrai, Bahnar đang bị mai một nhanh chóng trong nhịp sống hiện đại, trong đó có di sản văn hóa cồng chiêng. 3. Một số giải pháp khai thác giá trị cồng chiêng để phát triển du lịch ở địa phương 3.1. Những hoạt động xây dựng, bồi dưỡng, phát triển lực lượng nghệ nhân 3.1.1. Đối với cấp Trung ương Tổ chức các hội thảo, hội nghị khoa học cấp khu vực về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, vai trò của nghệ nhân để khẳng định những giá trị độc đáo của âm nhạc cồng chiêng trong kho tàng văn hóa dân gian và sự đóng góp to lớn của các nghệ nhân trong việc làm nên một Không gian văn hóa cồng chiêng ở Tây Nguyên. Thực hiện Nghị quyết Trung ương V, khóa III về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết số 33 của BCH Trung ương Đảng khóa XI ”về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Đưa nội dung âm nhạc cồng chiêng vào trong chương trình giáo dục của khoa âm nhạc tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học để học sinh, sinh viên hiểu những nét đại cương về âm nhạc dân gian Tây Nguyên. KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 47 S Ố 0 5 N Ă M 2 0 18 Để tôn vinh những người đánh cồng chiêng giỏi, chỉnh chiêng giỏi nên xét danh hiệu ”Nghệ nhân ưu tú” cho những người có tay nghề, trình độ cao, được cộng đồng công nhận, bầu chọn. Có chế độ, chính sách thỏa đáng động viên, khuyến khích họ cống hiến và truyền nghề cho thế hệ trẻ trong cộng đồng. Định kỳ tổ chức thi trình diễn cồng chiêng cấp khu vực, quốc tế, tạo điều kiện cho các nghệ nhân học hỏi, nâng cao tay nghề, giao lưu truyền đạt kinh nghiệm và kích thích lòng yêu nghề cùng nhau giữ gìn âm nhạc dân gian Tây Nguyên. 3.1.2. Đối với cấp tỉnh Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để đồng bào hiểu được không gian văn hóa công chiêng Tây Nguyên là một di sản văn hóa quý giá có giá trị to lớn trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc tại địa phương cần chung tay giữ gìn và phát huy. Hiện nay nhiều đồng bào vẫn chưa nhận thức được đầy đủ đằng sau những điệu cồng chiêng, những chiếc cồng chiêng, những buổi tham gia trình diễn trong các hoạt động thi diễn hay sinh hoạt cộng đồng kia lại là những di sản rất quý giá bởi đó là bản sắc riêng, độc đáo của dân tộc mình. Trong sự hội nhập toàn cầu nếu không giữ được văn hóa của dân tộc mình thì mình thì sẽ mau bị nhấn chìm, hòa tan. Nói như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Nói đến văn hóa là phải nói đến dân tộc và nói đến dân tộc phải nói đến văn hóa. Cho nên văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa suy thì dân tộc suy, văn hóa mất thì dân tộc diệt” [6]. Do vậy cần phải nâng cao ý thức cho đồng bào về văn hóa dân tộc, văn hóa của chính tộc người mình. Họ phải biết yêu quý, trân trọng, giữ gìn nó bởi đây là niềm tự hào của dân tộc, của mỗi cá nhân. Từ ý thức ấy mỗi người sẽ tự tìm ra cách bảo vệ nền văn hóa của mình. Với vai trò “Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài văn hóa nghệ thuật” của Trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật và đào tạo lực lượng giáo viên âm nhạc THCS của Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai, hai trường trên vừa là nơi truyền nghề vừa là nơi giới thiệu các giá trị của nghệ thuật âm nhạc dân gian. Bồi dưỡng năng lực cho giáo viên âm nhạc, tăng cường sự giao lưu, tiếp xúc giữa học viên thanh nhạc với nghệ nhân. Bổ sung trong chương trình giảng dạy ngoại khóa những tiết học về diễn tấu cồng chiêng, nhạc cụ dân tộc. Để phát hiện, bồi dưỡng lực lượng nghệ nhân kế cận, cần tạo điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ có cơ hội tiếp cận với nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng và các nghệ nhân có kinh nghiệm. Đó là các sinh hoạt trong lễ hội, tổ chức cuộc thi, mở lớp dạy đánh cồng chiêng... Có như thế, người già mới tăng thêm niềm hứng khởi, người trẻ nảy sinh sự yêu thích, ham học hỏi, nâng cao tay nghề. Cần bảo tồn cồng chiêng và diễn tấu cồng chiêng ngay trong đời sống cộng đồng. Khôi phục và phát huy các lễ hội truyền thống để qua môi trường lễ hội các nghệ nhân có thể thể hiện tài năng của mình, có nhiều cống hiến, đóng góp cho cộng đồng. Muốn không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tồn tại lâu bền, nghệ nhân có đất sống thì cấp ủy, chính quyền nên tạo ra nhu cầu cần đến âm nhạc cồng chiêng trong đời sống xã hội để khai thác nó phát triển ngành du lịch. Đó là gắn hoạt động trình diễn cồng chiêng cùng những sản phẩm phụ trợ khác (ẩm thực, trang phục, hàng lưu niệm, hàng nông thổ sản...) với các hoạt động du lịch. Coi văn hóa cồng chiêng như một sản phẩm hàng hóa có thể khai thác phục vụ du khách theo nhu cầu. Có như vậy lực lượng nghệ nhân mới có điều kiện duy trì, phát triển, mới có thể đem hết tài năng góp phần tô đậm thêm vẻ đẹp và giá trị cho kho tàng văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung. Cần nghiên cứu xây dựng chương trình văn nghệ cồng chiêng tại các buôn làng để hấp dẫn du khách. Hoạt động cùng tham gia giao lưu văn KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ48 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G nghệ, cồng chiêng sẽ tạo sự kết nối giữa du khách với dân làng. Để làm được điều này, đòi hỏi các cấp, ngành liên quan có những biện pháp bảo vệ và duy trì mô hình làng truyền thống, hỗ trợ kinh phí để xây dựng và bảo vệ một số thiết chế, hoạt động văn hóa của hai dân tộc tại chỗ trên cơ sở tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của đồng bào tại địa phương. Thực tế từ nhận thức về vai trò, vị trí của du lịch đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Ban thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 26/8/2008 về phát triển du lịch đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu phát triển ngành du lịch nhanh và bền vững để đến năm 2015 trở thành ngành kinh tế có đóng góp quan trọng trong GDP của lĩnh vực dịch vụ; phấn đấu sau năm 2020 ngành du lịch là một trong những ngành kinh tế quan trọng của tỉnh; góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thời gian qua, tỉnh Gia Lai đã có những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào tỉnh, trong đó có lĩnh vực du lịch. Trong nỗ lực để ngày càng cải thiện môi trường đầu tư, ngoài các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nư