Tóm tắt
Trong văn hóa truyền thống Việt, số 3 có thể được coi là “con số tâm linh, tinh thần”. Phát triển trong
môi trường văn hóa - xã hội truyền thống Việt Nam, con số 3 có mặt rất nhiều trong đời sống của cộng
đồng cư dân Việt. Từ đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, các mối quan hệ xã hội giữa con người
với con người và các sự vật, hiện tượng khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội đều ít nhiều có liên
hệ với con số 3.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo về số 3 trong văn hóa Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 83
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
KHẢO VỀ SỐ 3 TRONG VĂN HÓA VIỆT
DƯƠNG VĂN SÁU*
Tóm tắt
Trong văn hóa truyền thống Việt, số 3 có thể được coi là “con số tâm linh, tinh thần”. Phát triển trong
môi trường văn hóa - xã hội truyền thống Việt Nam, con số 3 có mặt rất nhiều trong đời sống của cộng
đồng cư dân Việt. Từ đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, các mối quan hệ xã hội giữa con người
với con người và các sự vật, hiện tượng khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội đều ít nhiều có liên
hệ với con số 3.
Từ khóa: Số 3, tam nhân, tam hữu, tam tài
Abstract
In Vietnamese traditional culture, the number 3 can be considered as a “spiritual number”.
Developing in Vietnamese traditional cultural and social environment, the number 3 appears a lot in
the life of the Vietnamese community. From the spiritual life to the material life, the social relationships
between people and people, between people and the various things and phenomena in social life are
more or less related to the number 3.
Keywords: The number 3, Tam Nhan, Tam Huu, Tam Tai
1. Số 3 trong đời sống tâm linh - tinh thần
của con người
Trong dãy số tự nhiên, số 3 được viết bằng các tự dạng sau: 3, ba. Với chữ Hán, số 3 đọc viết là tam (三;叁;弎)
để chỉ số thứ tự thứ ba trong dãy số tự nhiên.
Trong đời sống tinh thần của con người, số 3
là số lẻ, mang dương tính mạnh mẽ; biểu hiện
cho “Tam tài” (三才), ba ngôi vị cao quý nhất
trong vũ trụ, gồm Thiên - Địa - Nhân (ứng với
Trời - Đất - Con người) luôn gắn bó mật thiết
với nhau không thể thiếu, không thể tách rời
trong quá trình tồn tại và phát triển của con
người và vạn vật. Số 3 là một con số tâm linh;
sự hiện diện của nó gắn với nhiều sự vật, hiện
tượng bí ẩn có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp với nhiều cấp độ, mức độ khác nhau đến
các cá nhân, cộng đồng mà không dễ gì lý giải,
hóa giải. Trong vũ trụ có rất nhiều hành tinh
nhưng người ta thường nhắc tới “Tam tinh”
(三星) tức là 3 loại tinh tú vĩ đại, gồm: mặt Trời -
mặt Trăng và các vì sao, tạo nên Thái dương hệ
(hệ Mặt trời), nơi tồn tại của muôn loài, muôn
vật. Trên đời, có “Tam tài”, “Tam hợp” thì cũng
có “Tam tai”: 3 tai họa lớn gây họa cho loài
người, đó là: Thủy tai (水災): mưa gió, bão lũ,
sóng thần, lũ quét; Hỏa tai (火災): sấm sét,
nắng nóng gay gắt, hỏa hoạn dữ dội; Phong
tai (風災): bão tố, lốc xoáy, gió giật... Ngoài ra,
trong đời sống con người ta cũng còn luôn
phải đối mặt với các nguy cơ đến từ “Tiểu tam
tai”, đó là: “cơ hàn chi tai” (飢寒之災): tai họa
đói rét do mất mùa gây ra; “tật bệnh chi tai” (疾
病之災): tai họa do dịch bệnh gây ra; và “đao
binh chi tai” (刀兵之災): tai họa do chiến tranh,
xung đột gây ra. Theo đạo Lão, trong mỗi con
người đều có “Tam báu”, đó là: tinh - khí - thần
làm nên sức khỏe, trí tuệ, phong thái cho mỗi
chúng ta. Trong đời sống văn hóa - xã hội các
nước phương Đông, “Tam giáo” (三教): Nho -
Phật - Đạo (儒,佛, 道) được coi là ba mạch máu
tinh thần của xã hội Á Đông, làm nên một xã
hội đa văn hóa, đa tôn giáo - tín ngưỡng. Cả
ba tôn giáo này đều dung hội một cách khá * PGS.TS, Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Số 31 (Tháng 3 - 2020)84
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thống nhất trong xã hội Việt Nam tự cổ chí kim
thể hiện qua quan niệm “Tam đồng” khi người
ta nói: “Tam giáo đồng nguyên”: 3 tôn giáo đều
cùng cội nguồn; “Tam giáo đồng tôn”: 3 tôn
giáo đều được tôn trọng, tôn quý; “Tam giáo
đồng đường”: 3 tôn giáo cùng được thờ phụng
trong không gian di tích Việt. Trong cúng tế
thì có cúng “Tam sinh” (三牲): dâng 3 con vật
Trâu/bò - Dê/cừu - Lợn trong dịp lễ trọng để tế
Thần, cúng Thánh. Trong phong thủy phương
Đông, khi đón năm mới, hình tượng “Tam
dương khai thái” (三羊開泰) thường được sử
dụng nhiều vào những năm Mùi, hay gắn với
những người tuổi Mùi. Với hình 3 con dê đứng
chung với nhau trong 3 tư thế khác nhau, “Tam
dương khai thái” được bài trí trong nhà mang
ước vọng sẽ đem đến cho gia chủ sự may mắn,
hanh thông, cát tường; gặp được người quân
tử, tránh được kẻ tiểu nhân.
Trên đất nước Trung Hoa, từ xưa, Đức Khổng
Phu Tử (479 - 551 BC) đã viết trong sách Luận
ngữ: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên”
(三人同行必有我師焉). Có nghĩa là: trong ba
người cùng đi đường, nhất định có thầy ta ở
đó; trong đám đông tất có người mà mình
đáng học tập. Điều này muốn nhắn nhủ rằng
“Nhân tài trong đám quần chúng ấy”, “Nhân
dân là bậc thầy vĩ đại nhất”. Dưới thời Tam quốc
(220 - 280), điển tích “tam cố thảo lư” (三故草
盧) là cụm từ chỉ việc Lưu Bị đã 3 lần hạ mình
đến lều tranh ở đất Long Trung để mời Khổng
Minh Gia Cát ra giúp mình. Hình tượng này thể
hiện lòng kiên trì của đấng quân vương trong
việc “cầu hiền”, “chiêu hiền đãi sĩ”, trọng dụng
nhân tài để làm nên nghiệp lớn.
Trong Bát quái, quẻ Càn (乾) ứng với Trời, là
quẻ số 1 trong bát quái, có 3 gạch liền như
chữ tam, cũng hàm chứa sự quy tụ, thống hợp
trong vũ trụ, quy về đấng tối cao.
Số 3 là con số gắn với tâm linh nên nó hiện
hữu rất nhiều trong các tôn giáo, tín ngưỡng
ở Việt Nam. Trong ngôi chùa Phật giáo, “Tam
bảo” gồm Phật - Pháp - Tăng là 3 thứ quý giá
nhất, không gì hơn. Trong Phật giáo Đại thừa,
vị trí cao nhất trên Thượng điện thường có 3
pho “Tam thế”, thể hiện cho 3 ngôi vị Phật gắn
với Quá khứ - Hiện tại - Vị lai. Ba cõi thuộc về
“Tam giới”: dục giới - sắc giới - vô sắc giới cũng
là 3 giới trong vũ trụ quan Phật giáo. Trong nội
dung tư tưởng Phật giáo luôn coi “Tam độc”
(三毒): tham - sân - si (tham lam - nóng giận -
vô minh ngu tối) là 3 thứ cần phải loại trừ để
đem lại sự an vui cho mỗi chúng sinh.
Phật giáo truyền thống Việt Nam có Trúc
Lâm tam tổ là: Nhân Tông - Pháp Loa và Huyền
Quang là ba vị tổ truyền thừa của thiền phái
Trúc Lâm. Tín ngưỡng thờ Mẫu có Tam tòa
Thánh Mẫu, gồm: đệ nhất Mẫu Thượng thiên,
đệ nhị Mẫu Thượng ngàn và đệ tam Mẫu
Thoải phủ. Trong các di tích, các ban thờ Phật
- Thánh/Thần cũng thường bài trí 3 ngôi: nhân
vật chính ngồi chính giữa ngôi vị và 2 trợ thủ
hai bên. Chùa có cổng “Tam quan” với 3 cửa
dùng để vào - ra là công trình kiến trúc truyền
thống thể hiện thế giới quan Phật giáo. Trong
Kitô giáo cũng có hình tượng Đức Chúa 3 ngôi:
Đức Chúa Cha - Đức Chúa Con - Đức Chúa
Thánh Thần. Ba ngày là thời gian Chúa Giêsu
chết rồi sống lại trở về Trời. Chuông nhà thờ
được gióng 3 hồi báo, nhắc cho tín đồ Kitô hữu
tới lễ nhà thờ vào 4 giờ sáng, 12 giờ trưa và 5
giờ chiều trong ngày.
Chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu sâu
về con số 3 trong văn hóa phương Tây, nhưng
điều ai cũng nhận thấy là khi học tiếng Anh và
nhiều ngôn ngữ quốc tế khác đều phải nắm
chắc và sử dụng đúng ngữ pháp của 3 thì: quá
khứ - hiện tại - tương lai. Chúng ta cũng thấy
lá quốc kỳ Pháp có 3 màu xanh, trắng, đỏ nên
thường gọi là “Cờ tam tài”: cờ mang ba sắc
màu biểu tượng cho Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Ngoài ra, có rất nhiều quốc kỳ của các cường
quốc trên thế giới như Ý, Đức, Nga, cũng đều
có 3 màu.
2. Số 3 trong đời sống văn hóa - lịch sử
Con số 3 cũng là con số được chọn trong
lịch sử - văn hóa của cả một dân tộc và ngoài
cuộc sống xã hội, trong đời thường của mỗi
một gia đình để cho một em bé đủ thời gian
để khẳng định mình. Điều này phần nào thể
hiện qua truyền thuyết về “cậu bé làng Phù
Đổng”, khi lên 3 mới vươn mình lớn dậy giết
giặc, cứu nước. Con số 3 cũng là con số đi vào
lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc sớm nhất
của người Việt Nam. Đó là thời gian 3 năm (40
- 43) diễn ra cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống lại
giặc phương Bắc đô hộ của dân tộc ta do Hai
Bà Trưng lãnh đạo. Sau này, dấu mốc thời gian
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 85
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
3 năm lịch sử đó được ngợi ca qua lời của các
danh sĩ Lê Ngô Cát/Phạm Đình Toái trong Đại
Nam quốc sử diễn ca: “Ba thu gánh vác sơn hà/
Một là báo phục, hai là bá vương”.
Với các công trình kiến trúc truyền thống
thuộc về hoàng gia hay giới bình dân, con số
3 cũng xuất hiện trong rất nhiều vị thế khác
nhau. Với người dân ở nông thôn, ngôi nhà 3
gian (dù nhà tranh vách đất của nhà nghèo hay
được xây bằng gạch đối với gia đình khá giả)
là kiểu nhà phổ biến nhất. Ở kinh đô, với triều
đình phong kiến trung ương thì những tòa
thành, dinh thự, lâu các cũng phổ biến được
xây dựng với kiểu thức kiến trúc gắn nhiều
với số 3. Có thể kể đến như kiểu thức kiến trúc
“Tam trùng nhất điểm” (三重弌点) của các tòa
cổ thành phương Đông, mà ở Việt Nam tòa
thành cổ nhất là thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà
Nội) với 3 vòng thành được đắp bằng đất. Tòa
kinh thành thời kỳ cận hiện đại của lịch sử dân
tộc là Kinh thành Huế dù có cấu trúc Vau-ban
cũng vẫn là kiến trúc 3 vòng thành: Kinh thành
- Hoàng thành và Cấm thành. Cột cờ Hà Nội với
cấu trúc 3 tầng đế hình chóp vuông cụt chồng
lên nhau. Trong khi đó, Kỳ đài Huế với phần
Đài kỳ cũng gồm ba tầng hình chóp cụt chữ
nhật chồng lên nhau. Công trình quan trọng
nhất về mặt tâm linh của triều đình Huế là Đàn
Nam giao nơi dành cho các vị Vua nhà Nguyễn
tiến hành Tế Nam giao (tức là tế Trời). Ở trung
tâm của Đàn Nam giao, Giao đàn cũng gồm
3 tầng: tầng trên cùng là Viên đàn, xây thành
hình tròn, tượng trưng cho Trời; hai tầng dưới
là Phương đàn, xây thành hình vuông, tượng
trưng cho Đất. Kết cấu 3 phần phổ biến như
vậy mang tính chủ đạo trong các công trình
kiến trúc thuộc về vương quyền của các thể
chế quân chủ phong kiến phương Đông và
Việt Nam.
Trong các mối quan hệ xã hội thì có “Tam
cương” (三綱): Quân - sư - phụ để giữ gìn kỷ
cương, nề nếp trong gia đình và xã hội. Ở các
nước phương Đông dùng chữ Hán, kẻ nho
sinh khi mới bắt đầu học chữ Thánh hiền (chữ
Hán) thì phải học “Tam tự kinh” (三字經) là
cuốn sách dùng cho trẻ em mới đi học; mỗi
câu có 3 chữ, mở đầu là 人之初,性本善: nhân
chi sơ, tính bản thiện. Sau đó phải học “Tam
thiên tự” (三千字): 3.000 chữ Hán thông dụng
cho kẻ mới nhập “cửa Khổng sân Trình”. Với
những ai yêu thích thơ Đường thường biết
và nhắc tới cuốn “Đường thi tam bách thủ” (唐
詩三百首) là một tuyển tập gồm hơn 300 bài
thơ Đường xuất sắc do học giả Tôn Thù (1722
- 1778) tuyển soạn vào khoảng năm 1763 triều
vua Càn Long thời nhà Thanh. Ở Việt Nam, đại
thi hào Nguyễn Du cũng đã từng viết trong bài
“Độc Tiểu Thanh ký”: “Bất tri tam bách dư niên
hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (不知
三百餘年後,天下何人泣素如): Chẳng biết ba
trăm năm sau nữa, thiên hạ người đời có ai
khóc Tố Như ta?
Trong các tác phẩm có giá trị khi khảo cứu
về văn hóa lịch sử Trung Hoa, “Tam tài đồ hội”
(三才圖會) là tên gọi một bộ bách khoa thư
của người Trung Hoa do tác giả Vương Kỳ cùng
con trai của ông là Vương Tư Nghĩa biên soạn
và công bố vào năm 1609. Nội dung tác phẩm
này được xem là tư liệu cho mọi hiểu biết của
hậu thế về bối cảnh đất nước Trung Hoa dưới
triều Minh và các nước lân cận đương thời
trong đó có xứ An Nam ta1.
Trong cuộc sống con người, người ta luôn
cầu mong có được “Tam đa”: Phúc - Lộc - Thọ
cho mỗi người, mỗi gia đình hạnh phúc. Vậy
nên hình tượng “Tam đa”: ông Phúc - ông Lộc
- ông Thọ được điêu khắc và sử dụng rất phổ
biến để bài trí trong các gia đình người Việt.
Con số 3 cũng xuất hiện trong các hình thái tư
duy, suy luận diễn dịch ngôn từ, trong đó, “Tam
đoạn luận” là “diễn dịch hình thức” - một hình
thức chặt chẽ nhất của suy luận, là cách suy
luận để chỉ ra kết quả xác đáng đối với các sự
vật - hiện tượng.
3. Số 3 trong đời sống xã hội
Trong đời sống xã hội Việt truyền thống, số
3 biểu trưng cho sự đoàn kết gắn bó, hỗ trợ lẫn
nhau tạo nên sự chắc chắn, vững mạnh; thể
hiện rõ nhất trong hình tượng về chiếc “Kiềng
3 chân”: “Dù ai nói ngả nói nghiêng/ Lòng ta vẫn
vững như kiềng ba chân”. Tục ngữ Việt Nam có
câu: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm
lại nên hòn núi cao” để nhắc nhở, giáo dục mọi
người phải đoàn kết, chung sức, đồng lòng
làm nên việc lớn.
Trong gia đình Việt truyền thống, cụm từ
“Tam đại đồng đường” (三代仝堂) thể hiện sự
Số 31 (Tháng 3 - 2020)86
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
gắn bó liên kết chặt chẽ về huyết thống trường
thọ, trường tồn giữa 3 thế hệ: Ông bà - cha mẹ
- con cháu trong một gia đình. Việc sinh con
trong các gia đình ngày xưa, mọi người cũng
thường có quan niệm “tam nam bất phú, tứ
nữ bất bần” (三男不冨 - 四女不貧): 3 con trai
thì không thể giàu có, 4 con gái thì không thể
nghèo hèn.
Con số 3 cũng là số được chọn làm “chỉ số
định lượng” trong cấu trúc hợp thành của đời
sống xã hội con người. Danh sĩ Cao Bá Quát
(1809 - 1855) trong bài thơ “Uống rượu tiêu sầu”
có câu “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy/ Cảnh phù
du trông thấy đã nực cười”. Trong câu này, ba
vạn sáu ngàn ngày tức là 100 năm, ý muốn chỉ
một đời người dẫu có sống thọ đến trăm tuổi
cũng chỉ là sự phù du, huyễn hoặc Trong
quân đội, biên chế nhỏ nhất là “Tổ 3 người” (hay
được gọi là “Tổ tam tam”) giúp cho việc sinh
hoạt, rèn luyện, tổ chức phòng ngự hoặc tấn
công theo 3 hướng được đảm bảo chắc chắn.
Biên chế trong các đơn vị lục quân thường gắn
với số lượng là 3, ví dụ: 3 tiểu đội hợp thành 1
trung đội, 3 trung đội hợp thành 1 đại đội, 3
đại đội hợp thành 1 tiểu đoàn, 3 tiểu đoàn hợp
thành 1 trung đoàn, 3 trung đoàn hợp thành
1 sư đoàn Trong cuộc sống quân ngũ, lính
tráng có câu “cơm ba bát, hát ba bài” như một
“tiêu chuẩn định lượng” trong sinh hoạt của
người chiến sĩ. Trong nếp sống sinh hoạt hàng
ngày của con người, việc ăn uống được duy trì
đều đặn để đảm bảo sức khỏe, thì: cơm ngày
ba bữa. Nếu chẳng may ốm đau, dùng thuốc
Đông y theo chuẩn: “Cơm ba bát, thuốc ba
thang”. Ở đô thị cổ Hội An (Quảng Nam), trong
các món ăn truyền thống đặc trưng có món
mà người Quảng gọi là món “Tôm hữu”. Thực
chất đây là món “Tam hữu” (三友), nghĩa là 3
người bạn, gồm 3 nguyên liệu là tôm, thịt heo
và cọng hành quấn lại với nhau rồi hấp chín,
nhưng do giọng Quảng Nam khi phát âm “a”
bị biến thành “ô” vì thế món Tam hữu bị biến
thành món “Tôm hữu”. Xưa kia, cuộc sống hàng
ngày dù có vất vả đến đâu nhưng ba ngày Tết
phải no, thể hiện qua câu nói: “Đói quanh năm,
no ba ngày Tết” hoặc “Đói ngày giỗ cha, no ba
ngày Tết”. Con số 3 cũng đi vào những câu hát,
câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ khác. Khi đi tiếp
tế nhà chùa, thì: “Ba cô đội gạo lên chùa/ Một
cô yếm thắm bỏ bùa cho sư”. Với tình yêu dang
dở, đầy tiếc nuối thì: “Ba đồng một mớ trầu cay,
sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?”. Xã
hội xưa vốn “Nam tôn nữ ti” (男尊女卑), nhưng
trong con mắt của người dân lao động, người
phụ nữ vẫn được coi trọng: “Ba đồng một mớ
đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha/ Ba
trăm một mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa
cho ngồi”. Con số 3 trong các mối quan hệ xã
hội cũng phần nào thể hiện sự thống nhất cao,
nhất quán, ràng buộc, liên kết lẫn nhau khi
người ta nói: “Ba mặt một lời” để khẳng định
và thể hiện sự cam kết về một vấn đề gì đó.
Trong xã hội cũ, luật lệ thời xưa cũng ít nhiều
quan tâm đến nữ quyền, trong đó quy định:
người phụ nữ nếu chẳng may chồng chết, sau
ba năm được quyền tái giá, sang ngang. Việc
tang chế trong gia đình, con cái để tang cha
mẹ 3 năm; việc sang cát, cải táng, bốc mộ cho
người chết của người Việt ở Bắc Bộ xưa thường
được tiến hành sau khi chết 3 năm...
Ngày nay, trong các công trình nghiên cứu
khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
thường có cấu trúc 3 chương theo mô típ: Đặt
vấn đề - giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề.
Nếu một ngày có 3 buổi: sáng - chiều - tối thì
con người ta cũng có 3 thời: thơ ấu - trung
niên và tuổi già. Trong cuộc sống xã hội, số
3 cũng thể hiện sự giới hạn cuối cùng của sự
thay đổi: cha ông ta thường nói “quá tam ba
bận” thì không thay đổi nữa dù kết quả có
thế nào. Lễ hội xuân truyền thống ở các địa
phương thường có trò chơi thi đấu vật mang
tinh thần thượng võ, trong thi đấu thường vật
3 ván, dân gian gọi là “ba keo - mèo mở mắt”
để phân định sức mạnh thắng thua”, ván thứ
3 sẽ quyết định ai mạnh hơn ai. Điều này cũng
gặp trong thi đấu một số môn thể thao như
bóng bàn, bóng chuyền. Trong thi đấu bóng
đá, nếu một cầu thủ nào đó ghi được ba bàn
trong một trận thì cầu thủ đó được gọi là lập
một “hat-trick”...
Trong cuộc sống đời người, cha ông ta nói:
“Tam thập nhi lập” (三十而立), để nói người
con trai 30 tuổi là phải vững vàng lập thân, lập
nghiệp. Số 3 là giới hạn của sự chắc chắn, khỏe
mạnh nếu chúng ta biết giới hạn, tự chủ, điều
độ trong sinh hoạt. Một dị bản bài thơ tương
truyền của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác:
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 87
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
“Bán dạ tam bôi tửu/ Bình minh số trản trà/ Mỗi
nhật y như thử/ Lương y bất đáo gia” (半夜三
杯酒/ 平明數琖茶/ 每日依如此/ 良醫不到
家): Nửa đêm 3 chén rượu/ Sáng sớm một tuần
trà/ Mỗi ngày cứ như thế/ Thầy thuốc không
đến nhà. Theo vòng quay thời gian, trong một
mùa có 3 tháng, gọi là mạnh - trọng - quý (孟-
仲-季); trong một đêm có 5 canh, gồm canh
1 - canh 2 - canh 3 - canh 4 - canh 5, nhưng
canh 3 quan trọng nhất, bởi đó là “nửa đêm giờ
Tý, canh ba”: thời điểm giao hòa giữa ngày cũ -
ngày mới, thời gian giao hòa chuyện vợ chồng
nhạy cảm khó nói
Trong dãy số tự nhiên, các số 3, 5, 7, 9 đều là
các số lẻ, được coi là các số dương. Tuy nhiên,
trong văn hóa Á Đông, số 3 được dùng nhiều
hơn trong đời sống tâm linh - tinh thần cũng
như văn hóa - xã hội của con người vì số lượng
ít; biểu đạt các mối liên hệ cơ bản của con
người có liên quan đến đời thường, mang tính
phổ cập xã hội, gắn với cuộc sống xã hội của
con người nhiều hơn. Trong khi đó, số 5 cũng
là con số mang dương tính nhưng gắn bó sâu
hơn với các quan niệm của Nho giáo về: “ngũ
luân, ngũ thường” (Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín)
đem lại “ngũ phúc” (Phú - Quý - Thọ - Khang -
Ninh) của người quân tử. Con số 7 lại gắn với
thế giới quan Phật giáo nhiều hơn vì Phật giáo
là một “Tôn giáo âm tính”; chăm lo cho cái chết,
“sự sống sau cái chết” của con người nhiều hơn.
Vậy nên thế giới quan Phật giáo bàn nhiều đến
“lục dục - thất tình” (Lục dục là sáu việc ham
muốn của con người; Thất tình là bảy thứ tình
cảm biểu lộ ra bên ngoài gồm: hỉ, nộ, ai, lạc, ái,
ố, dục). Lễ Vu lan báo hiếu, một trong những
đại lễ của Phật giáo được thực hiện vào ngày
rằm tháng Bảy Trong khi đó, số 9 là số thành
dương lớn nhất, số cực dương lại gắn chặt với
đạo Lão; gắn với bùa phép, đàng tràng của các
đạo sĩ, thầy phù thủy; nhằm hóa giải, biến ảo
thế giới đời thường chuyển sang cõi Tiên, cõi
Thánh với “Cửu trùng thiên tiên”, “Hạc giá vân
du” đi mây về gió, thăng giáng dị thường, v.v.
Tóm lại, số 3 xuất hiện nhiều trong cả đời sống
tâm linh - tinh thần, văn hóa - lịch sử và xã hội
vì số 3 gắn với đời sống con người của mọi giai
tầng trong xã hội, trong khi các số 5, 7, 9 gắn
nhiều hơn với các quan hệ Nho - Phật - Lão,
nên ít phổ biến hơn.
Kết luận
Văn minh Việt Nam là văn minh ngôn từ,
các vấn đề có liên quan đến các khía cạnh của
đời sống vật chất và tinh thần của người Việt
có thể nói bằng rất nhiều ngôn từ phong phú
khác nhau. Trong những ngôn từ chỉ số lượng,
số 3 không chỉ dừng lại ở số lượng hay chất
lượng, vị trí hay cấu hình, định tính hay định
lượng, mà con số 3 đã gắn bó chặt chẽ, rộng
rãi với rất nhiều khía cạnh của cuộc sống con
người, trở thành một phần tất yếu không thể
tách rời của xã hội truyền thống Việt Nam.
D.V.S
Chú thích
1 Bộ bách khoa thư Tam tài đồ hội chia làm 106
quyển (chương) về 14 chủ đề khác nhau:
1. Thiên văn (天文): 01-04
2. Địa lý (地理): 05-20
3. Nhân vật (人物): 21-34. Tranh vẽ người Giao
Chỉ xuất hiện ở trang 16-17, quyển 32.
4. Thời linh (时令): 35-38
5. Cung thất (宫室): 39-42
6. Khí dụng (器用): 43-54
7. Thân thể (身体): 55-61
8. Y phục (衣服): 62-64
9. Nhân sự (人事): 65-74
10. Nghi chế (仪制): 75-82
11. Trân bảo (珍宝): 83-84
12. Văn sử (文史): 85-88
13. Điểu thú (鸟兽): 89-94
14. Thảo mộc (草木): 95-106 [1]
Tài liệu tham khảo
1.