Tóm tắt:
Khoa học và công nghệ đã, đang và sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội của nhiều nước trên thế giới. Để gắn hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất phù hợp vận
hành của cơ chế thị trường, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ ở nước ta cần phải có
chuyển đổi về tổ chức và hoạt động.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu: ”Tạo thị trường cho khoa học và
công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công
nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ ” Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX khẳng định: “Từng bước chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự trang trải kinh phí, được
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo điều kiện để phát triển nhanh doanh nghiệp khoa học công
nghệ”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: “Đa dạng hoá các nguồn lực
đầu tư cho khoa học và công nghệ, huy động các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động khoa
học, công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất
lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới
công nghệ trong các doanh nghiệp”.
Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, Thông tư số 06/2008/TTLTBKHCN-BTC-BNV, Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KHCN công lập được xem
là chính sách đột phá nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học vào sản xuất kinh doanh.
Trong khuôn khổ bài viết này xin trình bày một số vấn đề về khoa học công nghệ và doanh
nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn hiện nay trong thời kỳ hội nhập.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khoa học công nghệ và doanh nghiệp khoa học công nghệ thời kỳ hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
14 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ THỜI KỲ HỘI NHẬP
ThS. Bùi Thị Thu Hương
Trung tâm Tư vấn Thiết kế và Chuyển giao Công nghệ GTVT
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
Tóm tắt:
Khoa học và công nghệ đã, đang và sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội của nhiều nước trên thế giới. Để gắn hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất phù hợp vận
hành của cơ chế thị trường, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ ở nước ta cần phải có
chuyển đổi về tổ chức và hoạt động.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu: ”Tạo thị trường cho khoa học và
công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công
nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ” Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX khẳng định: “Từng bước chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự trang trải kinh phí, được
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo điều kiện để phát triển nhanh doanh nghiệp khoa học công
nghệ”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: “Đa dạng hoá các nguồn lực
đầu tư cho khoa học và công nghệ, huy động các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động khoa
học, công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất
lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới
công nghệ trong các doanh nghiệp”.
Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, Thông tư số 06/2008/TTLT-
BKHCN-BTC-BNV, Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KHCN công lập được xem
là chính sách đột phá nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học vào sản xuất kinh doanh.
Trong khuôn khổ bài viết này xin trình bày một số vấn đề về khoa học công nghệ và doanh
nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn hiện nay trong thời kỳ hội nhập.
I. NỘI DUNG.
1. Khoa học và công nghệ trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc.
Cách mạng khoa học công nghệ đang phát
triển như vũ bão đã và đang ảnh hưởng sâu rộng
đến tất các các mặt của đời sống, kinh tế, xã hội.
Chính cuộc cách mạng này đã làm thay đổi màu
sắc bức tranh chính trị, xã hội trên toàn cầu. Với
ý nghĩa đó, chúng ta cần nhận thức vai trò của
khoa học công nghệ trong sự nghiệp đổi mới của
đất nước.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát
triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với
phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước.
Mặc dù nước ta còn nghèo, nhưng trong thời
gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ
cán bộ KH&CN trong cả nước, tiềm lực KH&CN
đã được tăng cường, KH&CN đã có những đóng
góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Khoa học - công nghệ là một trong những
vấn đề được nhân loại quan tâm, nhất là trong
thời đại ngày nay. Bởi lẽ, nếu không có khoa học
và công nghệ thì đã không có sự chuyển tiếp
theo của xã hội loài người. Lịch sử xã hội loài
người là quá trình con người không ngừng nhận
thức và cải tạo thế giới bằng khoa học và công
nghệ. Những sáng tạo khoa học công nghệ mà
loài người đạt được, nhất là những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ được
bắt đầu từ giữa thế kỷ XX đã có tác động rất
mạnh mẽ, làm biến đổi sâu sắc và toàn diện bộ
mặt xã hội loài người. Những biến đổi lớn lao
của nền văn minh nhân loại trên mọi khía cạnh là
do tác động trực tiếp và gián tiếp của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ; cả khoa học và công
nghệ đều có mục đích là sử dụng tối ưu các
nguồn lực.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển công nghiệp và khoa học công
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 15
nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. Công
nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hoá là giải pháp
quyết định đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo
nàn lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu xã hội về
kinh tế đối với thế giới. Muốn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá không còn con đường nào khác là
phải tiến hành cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, mà trong đó cách mạng công nghệ là cốt
lõi. Đối với nước ta, cách mạng khoa học công
nghệ là chìa khoá của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, với
đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri
thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh
nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài
để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN
quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội.
Tận dụng những thành tựu của cuộc cách
mạng KH&CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng
vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá
trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh
tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ
dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn
nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào
một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.
Một trong sáu định hướng lớn để phát triển
kinh tế xã hội của nước ta hiện nay là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó như là
nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để
chuyển nền kinh tế có cơ cấu công - nông
nghiệp, dịch vụ hợp lý, trong đó công nghiệp và
dịch vụ ngày một chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu
tổng sản phẩm quốc nội. Mục tiêu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước là giải pháp tiên quyết đưa đất nước ta
ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khắc phục
và đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình
phấn đấu lâu dài, gian khổ và phải dựa vào sức
mình (năng lực nội sinh) là chính, nhưng đồng
thời phải tăng cường và mở rộng trao đổi giao
lưu, hợp tác quốc tế. Điều đó chỉ thành công khi
đẩy mạnh tiến hành cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, trong đó cách mạng công nghệ là
trọng tâm, cốt lõi. Chính vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã và đang chú trọng phát triển thị
trường công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế,
chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và
công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược, chính
sách phát triển) trở thành hàng hoá. Thông tin
rộng rãi và tạo môi trường cạnh tranh để các sản
phẩm khoa học và công nghệ được mua bán
thuận lợi trên thị trường.
Với trình độ KH&CN của nước ta hiện nay
nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế
giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công
nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KH&CN
nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của
KH&CN và kinh tế tri thức trên thế giới.
Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế -
xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về
chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh
tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy cơ kéo
dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các
nước trong khu vực và khó có thể thực hiện
được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi
KH&CN phải góp phần quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì vậy, Nhà nước ta cần tăng cường nhận
thức của toàn xã hội về vai trò của KH&CN, nhu
cầu cấp bách đối với việc đổi mới và hiện đại hoá
công nghệ. Mục tiêu phát triển KHCN đến năm
2020 là làm sao rút ngắn được khoảng cách với
các nước khác, tức là trong một thời gian ngắn
phải làm chủ được nhiều thành tựu công nghệ
tiên tiến. Bài toán sử dụng trí thức thông qua việc
quy tụ họ trong các tập thể nghiên cứu tiên tiến ở
các viện nghiên cứu, các trường đại học ngang
tầm thế giới là con đường ngắn nhất. Đây chính
là lực lượng nòng cốt, là chủ thể, hiện thân của
nền khoa học và ĐH của đất nước.
Phải đẩy mạnh các hoạt động thông tin
tuyên truyền KHCN để toàn xã hội nhận thức ý
nghĩa và tầm quan trọng của phương châm nói
trên. Bên cạnh công tác tuyên truyền để tăng
cường nhận thức, Nhà nước cần chủ động đề ra
các chính sách hoặc hoạt động kinh tế xã hội
phải vận dụng các thành tựu KHCN, từ khâu xác
định chủ trương đầu tư cho đến khâu thẩm định,
triển khai, đánh giá hiệu quả Các biện pháp
này sẽ tạo ra nhu cầu xã hội đối với KHCN.
Mặt khác Nhà nước ta cần chú trọng nâng
cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa
học và công nghệ từ việc đổi mới cơ chế quản lý
khoa học và công nghệ từ đó thúc đẩy nâng cao
chất lượng và khả năng thương mại của các sản
phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi
mới công nghệ trong các doanh nghiệp.
2. Khoa học và công nghệ với xu thế phát
triển.
Xu thế toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá (TCH) là xu thế nổi trội hiện
nay, bao trùm tất cả các mặt đời sống kinh tế - xã
hội của các quốc gia trên toàn thế giới. Trục cốt
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
16 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
lõi của xu thế đa diện này là TCH về kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ trên các lĩnh vực sản xuất,
thương mại, đầu tư, tài chính
Nền sản xuất trên thế giới ngày càng mang
tính toàn cầu, với sự phân công lao động quốc tế
sâu sắc, tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng
tăng lên. Những thành tựu của KH&CN hiện đại
dựa chủ yếu vào yếu tố trí tuệ như các công
nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn
thông, đang làm cơ sở cho sự hình thành nguyên
lý vận động mới của xu thế TCH kinh tế.
Tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính
ngày càng mở rộng với tốc độ phát triển cao, tạo
ra sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ
thống hữu cơ. Thương mại điện tử - sản phẩm là
sân chơi trong nền kinh tế tri thức. Các giao dịch
thương mại thông qua mạng internet đang phát
triển với tốc độ rất nhanh.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá vừa là
thách thức vừa trở thành đòi hỏi tất yếu của mỗi
quốc gia và liên quan mật thiết đến sự hưng,
vong của chính quốc gia đó. Đối với các nước có
trình độ phát triển kinh tế, KH&CN thấp, sức ép
cạnh tranh khi tham gia hội nhập sẽ rất lớn.
Các quốc gia khi tham gia quá trình TCH cần
chú ý đến những bất lợi toàn cầu hoá như
chuyển việc làm trong nước ra nước ngoài, mất
quyền kiểm soát các công ty đa quốc gia do
nước ngoài sở hữu Và đồng thời các nhà
hoạch định chính sách cần nhận thức được lợi
ích của TCH đối với nước mình và xây dựng
chính sách để thu hút các công ty này. Các chính
sách được xây dựng để hạn chế toàn cầu hoá,
hồi hương các chi nhánh nước ngoài Có thể
không phải là biện pháp hiệu quả để củng cố nền
kinh tế trong nước, bởi vì nó hạn chế con đường
tiếp cận với một nguồn tri thức lớn và tăng
trưởng sản xuất. Chính sách cần tập trung cải
thiện tính hấp dẫn của kinh tế trong nước đối với
doanh nghiệp nước ngoài và đảm bảo cho hoạt
động của họ phát triển bằng cách khuyến khích
hợp tác với các doanh nghiệp và nhà cung cấp
trong nước.
Xu thế phát triển mạnh mẽ của
KH&CN trên thế giới.
Sự liên kết, thâm nhập lẫn nhau giữa các
ngành, các lĩnh vực khoa học và công nghệ tạo
nên những ngành KH&CN mới, làm xuất hiện
những khả năng đột biến, khó dự báo trước.
Khoa học và công nghệ ngày càng gắn kết với
nhau một cách chặt chẽ, có ý nghĩa quyết định
đối với sự phát triển kinh tế nhiều quốc gia trên
thế giới. Cuộc cách mạng công nghệ hiện đại với
sự phát triển của các công nghệ lõi của hệ thống
công nghệ mới là công nghệ thông tin (liên kết
giữa tin học và viễn thông); công nghệ sinh học;
công nghệ tự động hoá; công nghệ tạo vật liệu,
năng lượng mới đang tạo ra cho nhân loại những
hệ thống sản xuất, hệ thống giao thông và trao
đổi hoàn toàn mới, làm thay đổi căn bản không
chỉ những xã hội công nghiệp mà cả những xã
hội nông nghiệp truyền thống.
Cùng với quá trình gắn kết giữa KH&CN,
mối liên kết giữa phát triển công nghệ, sản xuất,
kinh doanh cũng ngày càng phát triển. Quá trình
từ phát minh khoa học đến sáng chế, phát triển
công nghệ và đưa vào ứng dụng trong sản xuất
ngày càng rút ngắn. Ngày nay, KH&CN đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho phát triển
kinh tế và xã hội. Tiềm lực KH&CN ngày càng trở
thành lực lượng nòng cốt của sức sản xuất xã
hội.
Xu thế hướng tới xã hội thông tin và
nền kinh tế tri thức.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong xã hội
thông tin toàn cầu nhờ những tiến bộ thực sự có
ý nghĩa về công nghệ thông tin và truyền thông
cùng với việc xây dựng và phát triển cơ cấu
thông tin quốc gia và toàn cầu trong những năm
qua. Đặc điểm nổi bật của xã hội thông tin là sự
phát triển không dựa chủ yếu vào các nguồn dự
trữ tự nhiên như trong xã hội công nghiệp mà
chủ yếu dựa vào nguồn tri thức về KH&CN, tức
là các nguồn nhân lực tri thức có khả năng tái
tạo, tự sản sinh và không bao giờ cạn.
Cùng hướng tới xã hội thông tin, các nước
phát triển đang ở giai đoạn quá độ sang nền kinh
tế tri thức. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức là
nguồn sản xuất ra của cải chủ yếu dựa vào tri
thức và công nghệ cao. Xã hội thông tin toàn cầu
và sự phát triển của nền kinh tế tri thức mở ra
cho các nước đang phát triển những cơ hội tiếp
cận và tiếp nhận những thành quả của tiến bộ
KH&CN để xây dựng những ngành nghề mới có
hàm lượng kỹ thuật và tri thức cao, nhưng đồng
thời cũng đặt ra những thách thức về đào tạo
nguồn nhân lực trình độ và tay nghề cao và vốn
để xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin.
Xu thế phát huy quan hệ hợp tác công – tư.
Hầu hết các nước đang tìm mọi cách để
tăng chất lượng và hiệu quả nghiên cứu công
(nằm trong hệ thống nghiên cứu nhà nước), kích
thích đầu tư của các doanh nghiệp cho nghiên
cứu phát triển và củng cố mối quan hệ giữa khu
vực tư nhân và Nhà nước. Quan hệ đối tác công
- tư đã nổi lên như một yếu tố then chốt trong
chính sách đổi mới và thu hút ngày càng nhiều
tài trợ.
Quan hệ hợp tác công - tư là công cụ thiết
yếu để nuôi dưỡng đổi mới phát triển khoa học
công nghệ ở các nước. Thông qua đóng góp tài
chính của cả khu vực tư nhân lẫn Nhà nước,
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 17
quan hệ đối tác công - tư là phương tiện tăng
sức mạnh các khoản đầu tư khiêm tốn của Nhà
nước cho nghiên cứu khoa học phát triển và đảm
bảo sự cam kết mạnh hơn từ khu vực công
nghiệp. Bằng cách kết hợp nhu cầu của khu vực
Nhà nước và tư nhân thông qua các mục tiêu
chung và sự tham gia tích cực của các đối tác
quản lý và hoạch định chính sách, quan hệ đối
tác công - tư cũng có thể cải thiện chất lượng
những đóng góp của khu vực tư nhân đối với
nhu cầu của Nhà nước và cải thiện hạ tầng tri
thức căn bản.
Từ thực tế xây dựng và phát triển của một
số nước cho thấy, ít nhất một nửa mức tăng
trưởng kinh tế được dựa vào những tiến bộ khoa
học và công nghệ đem lại. Khoa học và công
nghệ ngày càng có tầm quan trọng trong phát
triển của mọi quốc gia, là nhân tố quyết định
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và
dịch vụ, hiệu quả quản lý xã hội, chất lượng cuộc
sống của mỗi dân tộc. Nhưng, để hoạt động tự
phát, khoa học và công nghệ sẽ khó phát triển
mạnh mẽ bởi có rất nhiều hoạt động nghiên cứu
không hấp dẫn đối với khu vực tư nhân. Hơn
nữa, nó còn gây nên những hậu quả tiêu cực
như định hướng nghiên cứu vào những mục tiêu
có hại cho cộng đồng hoặc một phương hướng
so với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước...
Các quan hệ đối tác công - tư cần được thiết
kế và quản lý một cách cẩn thận mới kết hợp
được những đối tác, các nền văn hoá, phương
pháp quản lý và mục tiêu khác nhau. Phụ thuộc
vào việc các quan hệ đối tác công - tư đảm bảo
như thế nào cam kết của lĩnh vực tư nhân mà
vẫn trung hoà được các mục tiêu công và tư, hội
nhập ra sao với hệ thống đổi mới quốc gia, tối ưu
hoá những cam kết tài trợ, tạo ra những liên kết
quốc tế thích hợp, lôi cuốn các doanh nghiệp vừa
và nhỏ và được đánh giá như thế nào. Ví dụ,
việc lựa chọn dựa trên phương pháp cạnh tranh
từ dưới lên dường như là một phương tiện hiệu
quả giúp các quan hệ đối tác công - tư thu hút
được các doanh nghiệp có năng lực và đứng
vững trên khả năng vốn có của mình. Tuy nhiên,
những tiêu chí từ trên xuống đôi khi cũng rất cần
thiết để giúp các chương trình quan hệ đối tác
công - tư với tới những lĩnh vực có tầm quan
trọng chiến lược của quốc gia. Cân đối đóng góp
tài chính của khu vực Nhà nước và tư nhân và
thời gian cấp vốn của Nhà nước cũng cần được
điều chỉnh để xem xét mức độ nghiên cứu đó
nhằm đáp ứng cho nhu cầu của Nhà nước hay
hỗ trợ nghiên cứu phát triển trong các doanh
nghiệp.
Xu thế phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững
đòi hỏi tìm kiếm một phương thức phát triển mới
dựa trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài, kết hợp giữa tăng trưởng kinh
tế với bảo tồn thiên nhiên. Đây là một thách thức
lớn đối với hầu hết các lĩnh vực KH&CN. Những
vấn đề môi trường đặt ra cho KH&CN không chỉ
trong việc xử lý hậu quả mà quan trọng hơn là
tạo ra công nghệ thân thiện với môi trường. Cần
xây dựng nhận thức mới về thiên nhiên, tìm kiếm
sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên, đi đôi
với việc khai thác thiên nhiên, con người cần bảo
vệ và chung sống hài hoà với thiên nhiên.
Các giai đoạn của xu hướng đổi mới
công nghệ.
Quá trình đổi mới công nghệ bao gồm: Đổi
mới quy trình sản xuất, đổi mới sản phẩm tiến
đến sáng tạo và làm chủ công nghệ. Sự phát
triển công nghệ ở mỗi quốc gia và ở mỗi ngành
thường trải qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn1: Du nhập công nghệ từ nước
ngoài, giai đoạn này không hoặc ít quan tâm đến
thích hợp với điều kiện trong nước nên không
mang lại sự tăng cường năng lực công nghệ
hoặc kết cấu hạ tầng cho đất nước.
Giai đoạn 2: Tổ chức kết cấu hạ tầng (thông
tin khoa học, các cơ quan khoa học, chính sách
khoa học, con người khoa học và thái độ của
cộng đồng) một cách sơ khai, đơn giản nhằm hỗ
trợ cho công nghệ nhập ngoại. Có khi bên chủ
sở hữu cung cấp công nghệ, giúp đỡ hỗ trợ xây
dựng cơ sở hạ tầng. Sau đó bên nhận công nghệ
phải bù lại.
Giai đoạn 3: Tạo nguồn công nghệ từ nước
ngoài dạng nhập linh kiện, thiết bị, dây chuyền
công nghệ và tiến hành lắp ráp các sản phẩm
theo thiết kế của nước ngoài. Sản phẩm dùng để
tiêu thụ trong nước và có hướng đến thị trường
xuất khẩu. Giai đoạn này đánh dấu bước tiến
mới cho sự phát triển của đội ngũ nhân lực, tiếp
cận với những yếu tố hiện đại của năng lực công
nghệ.
Giai đoạn 4: Mua bằng sáng chế về công
nghệ của nước ngoài nhưng để chế tạo các sản
phẩm đó từ các điều kiện trong nước, Giai đoạn
này thực sự là bắt đầu đóng góp vào việc xây
dựng tiềm lực và năng lực công nghệ quốc gia -
làm chủ một phần trong sáng tạo công nghệ -
linh hoạt vận dụng thích ứng để đạt mục tiêu.
Giai đoạn 5: Sử dụng năng lực nghiên cứu
khoa học và triển khai công nghệ ở trong nước
nhằm tạo lập nội sinh thích ứng công nghệ nhập
trong trình độ phát triển chung của đất nước. Ở
đây xuất hiện năng lực đổi mới công nghệ đánh
dấu sự quá độ từ bị động trang bị công nghệ
sang chủ động và sáng tạo công nghệ. Lúc này
Giao th«