Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy sự phát triển thần kỳ 
của Đông á. Mô hình phát triển của Đông á đã khiến các Chính phủ, các học 
giả, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế phải suy ngẫm và học hỏi. Trong câu 
chuyện thần kỳ đó, chính sách công nghiệp là một vấn đề rất được quan tâm. 
Và mặc dù vai trò của nó đối với thành công của Đông á còn phải được xem 
xét, khảo cứu, nhưng đến nay, chính sách công nghiệp đã trở thành một bộ 
phận quan trọng trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của 
các quốc gia trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện nay Đảng, Nhà 
nước và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta về cơ bản thành một nước công 
nghiệp vào năm 2020. Trong quá trình này, chúng ta cần xây dựng và thực 
hiện được các chính sách công nghiệp vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của 
đất nước vừa đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập vào nền 
kinh tế thế giới nhằm tạo cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Để 
thực hiện được nhiệm vụ to lớn này, cùng với việc nghiên cứu, phân tích, 
nắm bắt các qui luật khách quan và thực tiễn để đề ra các chính sách công 
nghiệp có cơ sở khoa học, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của những 
nước đi trước, đặc biệt là những nước trong khu vực có các điều kiện về 
chính trị, văn hoá, xã hội tương đồng với chúng ta, là việc làm hết sức cần 
thiết và bổ ích. Xuất phát từ bối cảnh đó, em chọn đề tài “ Chính sách công 
nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ” làm khoá luận tốt nghiệp của 
mình nhằm: góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn của 
CSCN, phân tích các CSCN của Nhật Bản, Trung Quốc và rút ra những bài 
học kinh nghiệm cho quá trình hoạch định và thực thi CSCN, và trên cơ sở 
đó trình bày một số kiến nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách 
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Với mục tiêu như vậy, ngoài 
các phần “Mở đầu”, “Kết luận” và “Danh mục tài liệu tham khảo” kết cấu 
của khoá luận được trình bày thành ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận của chính sách công nghiệp.
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật 
Bản và Trung Quốc. 
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện 
chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 87 trang
87 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách công nghiệp: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
Luận văn 
Chính sách công nghiệp - Lý 
luận và kinh nghiệm quốc tế 
 2
Mở đầu 
Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy sự phát triển thần kỳ 
của Đông á. Mô hình phát triển của Đông á đã khiến các Chính phủ, các học 
giả, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế phải suy ngẫm và học hỏi. Trong câu 
chuyện thần kỳ đó, chính sách công nghiệp là một vấn đề rất được quan tâm. 
Và mặc dù vai trò của nó đối với thành công của Đông á còn phải được xem 
xét, khảo cứu, nhưng đến nay, chính sách công nghiệp đã trở thành một bộ 
phận quan trọng trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của 
các quốc gia trên thế giới. 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện nay Đảng, Nhà 
nước và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta về cơ bản thành một nước công 
nghiệp vào năm 2020. Trong quá trình này, chúng ta cần xây dựng và thực 
hiện được các chính sách công nghiệp vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của 
đất nước vừa đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập vào nền 
kinh tế thế giới nhằm tạo cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Để 
thực hiện được nhiệm vụ to lớn này, cùng với việc nghiên cứu, phân tích, 
nắm bắt các qui luật khách quan và thực tiễn để đề ra các chính sách công 
nghiệp có cơ sở khoa học, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của những 
nước đi trước, đặc biệt là những nước trong khu vực có các điều kiện về 
chính trị, văn hoá, xã hội tương đồng với chúng ta, là việc làm hết sức cần 
thiết và bổ ích. Xuất phát từ bối cảnh đó, em chọn đề tài “ Chính sách công 
nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ” làm khoá luận tốt nghiệp của 
mình nhằm: góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn của 
CSCN, phân tích các CSCN của Nhật Bản, Trung Quốc và rút ra những bài 
học kinh nghiệm cho quá trình hoạch định và thực thi CSCN, và trên cơ sở 
đó trình bày một số kiến nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách 
 3
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Với mục tiêu như vậy, ngoài 
các phần “Mở đầu”, “Kết luận” và “Danh mục tài liệu tham khảo” kết cấu 
của khoá luận được trình bày thành ba chương. 
Chương 1: Những vấn đề lý luận của chính sách công nghiệp. 
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật 
Bản và Trung Quốc. 
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện 
chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. 
 4
Chương 1 
Những vấn đề lý luận của Chính sách công nghiệp 
Chính sách công nghiệp là một phần đặc biệt trong câu chuyện thần kỳ 
Đông á. Sự đánh giá về vai trò của nó đối với thành công của Đông á đã gây 
rất nhiều tranh cãi. Đó là bởi vì chính sách công nghiệp (CSCN) bên cạnh 
những mặt tích cực còn có những mặt trái rõ rệt. Nó thường bị coi là hành vi 
trục lợi của một số nhóm đặc quyền và là nguồn gốc của sự tham nhũng, tiêu 
cực trong giới quan chức chính phủ... Nhiệm vụ của chương này là hệ thống 
hoá một số vấn đề về lý luận của CSCN, bao gồm: khái niệm, nội dung, mục 
tiêu và công cụ của CSCN…Ngoài ra, những điều kiện để có một chính sách 
công nghiệp hữu hiệu cũng được đưa vào và xem xét trên cơ sở lý thuyết 
kinh tế. Đây là những căn cứ quan trọng để tác giả phân tích CSCN trong 
các phần tiếp theo. 
1.1. Tổng quan về chính sách công nghiệp. 
1.1.1. Khái niệm về chính sách công nghiệp. 
Việc thảo luận về chính sách công nghiệp nhiều khi gặp khó khăn. Vì 
cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm chuẩn thống nhất về CSCN. Có 
nhiều người quan niệm CSCN là những chính sách được nhằm vào ngành 
công nghiệp. Một số khác định nghĩa CSCN theo cách hẹp hơn, họ cho rằng 
CSCN chỉ là những chính sách liên quan tới việc khuyến khích và tổ chức 
lại các ngành công nghiệp riêng biệt nào đó. Trong khi đó, một số nhà 
nghiên cứu thì định nghĩa CSCN hết sức chung chung, coi CSCN là công 
cụ, biện pháp để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục 
tiêu nhất định. Tuy nhiên, theo tác giả đề tài này, mặc dù các quan niệm trên 
không hoàn toàn sai nhưng những quan niệm này là chưa đầy đủ hoặc không 
rõ ràng. Vì những quan niệm này đã xác định không chính xác mục tiêu, đối 
tượng, nội dung cũng như cơ chế thực hiện của CSCN. 
 5
Phân tích về mặt thuật ngữ, cụm từ “chính sách công nghiệp” được 
xuất hiện vào đầu những năm 1970, đầu tiên là ở Nhật Bản. Theo tiếng 
Nhật, chính sách công nghiệp là “Sangyo Seisaku”. Còn trong tiếng Anh, 
CSCN được gọi là “Industrial Policy”. Từ “Industry” có hai nghĩa, bao gồm: 
(i) ngành chế tạo hay sản xuất; (ii) công nghiệp, kinh doanh. Như vậy, thuật 
ngữ “ chính sách công nghiệp “ có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau là 
chính sách điều chỉnh ngành công nghiệp hoặc chính sách ngành và nó gây 
ra những sự lầm lẫn trong việc tìm hiểu và phân tích về CSCN. 
Xét về nội dung, chính sách công nghiệp được nhìn nhận rất khác nhau: 
- Theo Ryutaro Komiya, căn cứ vào các chính sách phát triển công 
nghiệp của Nhật Bản, ông coi CSCN là “ các chính sách của chính phủ 
thuộc loại mà nếu không được vận dụng, sẽ có một sự phân bổ nguồn lực 
theo cách khác giữa các ngành hoặc mức khác biệt về khía cạnh nào đó của 
hoạt động kinh tế của các hãng cấu thành một ngành công nghiệp ”. Tuy 
nhiên sau đó ông đã sửa đổi và mở rộng định nghĩa này, ông cho rằng CSCN 
bao gồm các chính sách ảnh hưởng tới sự phân bổ nguồn lực cho các ngành 
công nghiệp và các chính sách ảnh hưởng tới tổ chức ngành. [5, 15]. 
- Cũng có quan điểm khá tương đồng với quan niệm trên, Motoshige 
Ito, trong cuốn sách “Phân tích kinh tế về chính sách công nghiệp”, đã cho 
rằng “chính sách công nghiệp là chính sách nhằm tác động tới phúc lợi kinh 
tế của một quốc qua thông qua việc Chính phủ can thiệp vào lĩnh vực phân 
bổ các nguồn lực giữa các ngành, các khu vực của một quốc gia và can thiệp 
vào tổ chức sản xuất của các ngành/khu vực nào đó”. Theo quan niệm này, 
đối tượng của CSCN không chỉ là các ngành công nghiệp mà còn là các 
ngành khác đồng thời CSCN vừa bao gồm chính sách có tác động liên 
ngành, vừa bao gồm chính sách có tác động tới nội bộ một ngành. [60, 23]. 
- Nhấn mạnh đến khía cạnh phân bổ nguồn lực, Paul Krugman coi 
CSCN là “ sự nỗ lực của Chính phủ nhằm huy động các nguồn lực cho các 
 6
khu vực riêng biệt được xem là quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong 
tương lai và do đó CSCN luôn thúc đẩy một số bộ phận của nền kinh tế 
thông qua việc gây bất lợi cho các bộ phận khác ”. [460, 11]. 
Những quan điểm trên cho thấy việc cho rằng CSCN nhằm điều chỉnh 
ngành công nghiệp là không thật chính xác. Tất nhiên, lĩnh vực công nghiệp 
là lĩnh vực sản xuất chủ yếu của nền kinh tế, phát triển công nghiệp là nền 
tảng quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển, thế nhưng bên cạnh lĩnh vực 
công nghiệp còn có các lĩnh vực khác và thực tế cho thấy rằng có một số 
quốc gia đã sử dụng những chính sách, mà bản chất của nó giống như các 
CSCN được đề cập ở trên, để thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực đó như 
Mỹ chẳng hạn. Chính phủ Mỹ đã có vai trò chính trong việc phát triển các 
ngành nông nghiệp thông qua các biện pháp trợ cấp, hỗ trợ nghiên cứu và 
triển khai... [485, 11]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong khuôn khổ lý thuyết 
kinh tế, khái niệm “chính sách công nghiệp” cần được hiểu là chính sách 
ngành. Đó là các chính sách ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực giữa các 
ngành cũng như các doanh nghiệp trong những ngành đó và các chính sách 
ảnh hưởng tới tổ chức ngành. [230, 3]. 
 Tóm lại, trên cơ sở các phân tích nêu trên, đề tài này đặt trọng tâm của 
CSCN vào “các chính sách, biện pháp được Nhà nước sử dụng để tác động 
đến sự phân bổ nguồn lực giữa các ngành cũng như giữa các doanh nghiệp 
trong các ngành đó nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển”. Đối tượng CSCN là 
các doanh nghiệp, các ngành hoạt động sản xuất. Do đó, CSCN khác với các 
chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế vĩ mô được xây dựng trên 
quan điểm vĩ mô còn CSCN được hoạch định trên quan điểm vi mô để can 
thiệp vào hành vi của các doanh nghiệp, các ngành.Ví dụ như với chính sách 
tài chính, đối tượng của chính sách là tổng thể nền kinh tế, Nhà nước can 
thiệp theo hướng tăng chi tiêu sẽ mở rộng tổng cầu từ đó nó làm thay đổi sản 
lượng, thu nhập, việc làm... những biến số kinh tế vĩ mô; còn trong một 
 7
CSCN, nhìn ở giác độ ngành kinh tế, việc Chính phủ trợ cấp cho một ngành 
phát triển sản xuất sẽ khiến Chính phủ phải chuyển nguồn lực từ các ngành 
khác sang ngành này và do đó nó không trực tiếp ảnh hưởng đến các biến số 
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên về dài hạn, CSCN cũng ảnh hưởng đến các biến số 
kinh tế vĩ mô vì nó điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu thương mại, ảnh hưởng 
tới việc làm, sản lượng, chu kỳ kinh doanh, tác động đến cơ sở hạ tầng, công 
nghệ và năng suất tạo ra lợi thế cạnh tranh mới ảnh hưởng đến giá cả... Mặt 
khác, các mục tiêu vĩ mô cũng sẽ điều chỉnh CSCN cho nên quan điểm phân 
chia vi mô, vĩ mô chỉ mang tính chất tương đối. 
1.1.2. Mục tiêu và công cụ của chính sách công nghiệp 
1.1.2.1. Mục tiêu của chính sách công nghiệp 
Các chính sách công nghiệp hiện thời nhằm vào vô số mục tiêu, trong 
số đó có nhiều mục tiêu phi kinh tế. Tuy nhiên, đề tài này chỉ hướng trọng 
tâm vào các chính sách được thực thi vì những lý do kinh tế. Về cơ bản, các 
chính sách kinh tế phải hướng tới các mục tiêu kinh tế chung như tăng 
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định giá cả, đảm bảo đầy đủ công ăn 
việc làm ở mức độ cao và cân bằng cán cân thanh toán đồng thời góp phần 
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá. Chính sách công nghiệp không phải là một trường hợp ngoại 
lệ. Song song với mục tiêu chung này, mục tiêu trực tiếp của CSCN là tạo ra 
được một cơ cấu ngành hợp lý trên cơ sở thúc đẩy một số ngành phát triển, 
có sức cạnh tranh quốc tế và có khả năng hỗ trợ nền kinh tế thị trường. Với 
các mục tiêu như vậy, nội dung chủ yếu của CSCN là lựa chọn những ngành 
cần ưu tiên và các biện pháp thúc đẩy những ngành này phát triển hoặc ở 
một khía cạnh khác, đó là xác định những ngành suy thoái hay phải hạn chế 
và phương thức “giải thoát” các nguồn lực khan hiếm ra khỏi những ngành 
đó một cách hợp lý. 
 8
Khi xem xét mục tiêu của CSCN, rất dễ có sự lầm lẫn với chính sách 
cơ cấu ngành kinh tế. Vấn đề cần lưu ý ở đây là chính sách cơ cấu ngành 
kinh tế thường có phạm vi và nhiệm vụ rộng lớn hơn nhiều so với CSCN. 
Chính sách cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện nhằm điều chỉnh hoạt động 
sản xuất giữa các ngành và nội bộ ngành trong nền kinh tế quốc dân theo 
định hướng chiến lược phát triển ngành trong từng giai đoạn nhất định, nội 
dung của nó phản ánh sự thay đổi tỷ trọng của các ngành và nội bộ ngành 
trong nền kinh tế. [279, 7]. Còn CSCN chỉ can thiệp vào sự phân bổ nguồn 
lực giữa các ngành cũng như các doanh nghiệp trong những ngành đó do có 
sự tồn tại của các thất bại thị trường với nội dung chủ yếu là lựa chọn và 
thúc đẩy những ngành cần ưu tiên hay hợp lý hoá những ngành cần hạn chế . 
Mặt khác, cần phải nói thêm rằng, mục tiêu cũng như các giải pháp chính 
sách của CSCN được xem xét là tạm thời hay chiến lược, dài hạn hay ngắn 
hạn sẽ tuỳ thuộc vào từng Chính phủ, từng giai đoạn phát triển kinh tế cũng 
như bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước của mỗi quốc gia. Ví dụ như Nhật 
Bản trong những năm 50, mục tiêu trọng tâm của CSCN là phục hồi sản 
xuất cho nên CSCN là chính sách tái thiết với việc thiết kế hệ thống sản xuất 
ưu tiên; còn Mỹ trong những năm 90 khi mà nền kinh tế thị trường đã hoàn 
thiện thì mục tiêu và nội dung của CSCN được gắn với việc điều chỉnh cơ 
cấu ngành, chủ yếu là cơ cấu công nghiệp. 
Xét một cách tiếp cận khác đối với mục tiêu của CSCN, CSCN bao 
gồm các chính sách mà dựa vào đó Chính phủ của một nước quyết tâm tạo 
ra một cơ cấu ngành, đặc biệt là cơ cấu công nghiệp được cho là lý tưởng 
đối với sự phát triển kinh tế như: các chính sách bảo vệ những ngành công 
nghiệp “non trẻ”, xúc tiến sự phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, hỗ 
trợ hay hợp lý hoá các ngành suy thoái…, và điều này đặc biệt có ý nghĩa 
đối với một nền kinh tế mở. Theo mô hình lý thuyết lợi thế so sánh của 
D.Ricardo, với giả định cơ cấu công nghiệp có sẵn các quốc gia sẽ được lợi 
 9
nếu xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh và nhập khẩu các hàng hoá 
có ít lợi thế so sánh hơn.Vì vậy, khi cơ cấu công nghiệp thay đổi theo hướng 
tạo ra sự thay đổi về lợi thế so sánh thì thông qua cơ cấu thương mại sự tái 
phân phối thu nhập giữa các quốc gia xảy ra, những nước phát huy được lợi 
thế mới này sẽ được lợi. Như vậy, theo cách tiếp cận này, có thể coi CSCN 
là một chính sách được thực hiện nhằm tăng cường phúc lợi kinh tế của một 
quốc gia bằng cách làm giảm phúc lợi của nước khác. Đây cũng là một trong 
những nguốn gốc dẫn đến các xung đột thương mại quốc tế. 
1.1.2.2. Công cụ của chính sách công nghiệp 
Chính sách công nghiệp thực hiện các mục tiêu và nội dung của mình 
thông qua một hệ thống các công cụ. Đó là hệ thống những phương tiện 
truyền dẫn các phương thức tác động lên đối tượng của CSCN. Hệ thống 
này bao gồm những nhóm công cụ cơ bản sau: 
- Những công cụ kinh tế là ngân sách, các quỹ, hệ thống đòn bảy 
khuyến khích kinh tế như thuế, trợ cấp, lãi suất.... 
- Những công cụ hành chính, tổ chức gồm có: các công cụ hành chính 
là các kế hoạch, quy hoạch của Nhà nước và hệ thống các văn bản quy phạm 
pháp luật, các công cụ tổ chức như mô hình tổ chức bộ máy và đội ngũ cán 
bộ công chức tham gia vào quá trình hoạch định và triển khai. 
- Những công cụ tuyên truyền, giáo dục là hệ thống thông tin đại chúng 
liên ngành, các hiệp hội... 
- Những công cụ mang tính kỹ thuật và nghiệp vụ như công tác kiểm 
tra, thu thập thông tin, các tiêu chuẩn kỹ thuật... 
Kinh nghiệm từ hoạt động thực thi CSCN trên thế giới và đặc biệt là 
của Nhật Bản cho thấy rằng, có thể chia công cụ CSCN thành ba loại chủ 
yếu: các công cụ điều chỉnh trực tiếp, các công cụ khuyến khích gián tiếp và 
các công cụ liên quan tới thông tin. 
 10
- Nhóm công cụ điều chỉnh trực tiếp bao gồm việc cấp giấy phép hoặc 
bản quyền, phân phối hàng hoá, kiểm soát sự gia nhập ngành mới, việc hình 
thành những cácten...Những công cụ như vậy thường có hiệu ứng phụ vì 
chúng có khuynh hướng tạo nên sự khác biệt tuyệt đối giữa các đối tượng 
chịu sự điều chỉnh của luật với các đối tượng khác. Hơn nữa, với những 
công cụ mang tính kế hoạch, chúng có thể gây ra trở ngại đối với quyền tự 
trị và sự phát triển của ngành bị can thiệp, đặc biệt khi các ngành này trưởng 
thành. 
 - Nhóm công cụ khuyến khích gián tiếp bao gồm các khuyến khích về 
tài chính như thuế, trợ cấp, thuế quan và vốn cho vay của Chính phủ và các 
công cụ ảnh hưởng đến môi trường mà ở đó doanh nghiệp, ngành hoạt động 
như các hạn chế thương mại và quy chế đầu tư. ở đây, tác giả chỉ phân tích 
một số công cụ chủ yếu: 
+ Hệ thống thuế: Thuế là một khoản chi phí mà Nhà nước yêu cầu các 
cá nhân, tổ chức phải nộp trong một điều kiện nhất định. Thuế thường có ba 
loại: thuế thu nhập (thuế trực thu), thuế tiêu dùng (thuế gián thu) và thuế tài 
sản. Vì thuế được tính vào chi phí nên nó có thể ảnh hưởng tới giá cả làm 
lệch lạc tín hiệu giá cả, thực hiện sự phân bổ nguồn lực theo ý đồ của Nhà 
nước. Trong phạm vi CSCN, để thúc đẩy một ngành phát triển, Nhà nước có 
thể thực hiện giảm thuế hay thậm chí miễn thuế đối với ngành đó. Một biện 
pháp quan trọng trong việc giảm thuế là Nhà nước đưa ra hệ thống khấu hao. 
Đó là một hệ thống được thiết kế để phân bổ các chi phí phải chịu về máy 
móc thiết bị trong khoảng thời gian tồn tại được quy định của tài sản đó mà 
không tính tới chi phí về lãi suất và lạm phát trong thời kỳ có liên quan. Nếu 
thời gian tồn tại được quy định của tài sản càng ngắn tức là tài sản được 
khấu hao nhanh thì mức tiết kiệm thuế thu nhập càng lớn và lợi nhuận của 
doanh nghiệp sẽ tăng lên. Do đó, ngoài biện pháp giảm thuế, để tạo ưu thế 
cho một số ngành, đặc biệt đối với các ngành phục vụ xuất khẩu hoặc những 
 11
ngành quan trọng có thời gian thu hồi vốn dài, Nhà nước có thể cho phép 
những ngành đó khấu hao nhanh những thiết bị, máy móc quan trọng, đắt 
tiền. Nói chung, biện pháp này ít tạo ra những méo mó về giá cả nên nó hay 
được sử dụng. 
- Thuế quan bảo hộ là loại thuế đánh vào các hàng hoá xuất nhập khẩu, 
thuế quan nhập khẩu thường là một trường hợp điển hình hơn. Đây là công 
cụ hữu hiệu của CSCN xét trên phương diện nó thực hiện mục tiêu phát 
triển một số ngành nào đó nhất là những ngành “công nghiệp non trẻ”. Tuy 
nhiên, kết quả là mặc dù tạo ra công ăn việc làm, tạo đà phát triển cho ngành 
công nghiệp non trẻ, nhưng nó lại tạo ra gánh nặng thuế quan cho người tiêu 
dùng và hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra thời gian bảo hộ bằng thuế quan mà 
quá dài thì sẽ ảnh hưởng đến tình trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp 
trong nước khiến họ không thể lớn mạnh lên được. 
- Trợ cấp: Về mặt phân bổ nguồn lực thì tác động của trợ cấp cũng 
tương tự như thuế. Ngoài ra, do trợ cấp thực tế sẽ làm giảm lượng vốn và 
phụ phí cho đầu tư nên nó có hiệu quả đáng kể định hướng hành vi của các 
doanh nghiệp nhưng mặt trái của điều này là chúng cũng hạn chế cách ứng 
xử của doanh nghiệp. Mặt khác, trợ cấp thường được phân bổ thông qua quá 
trình chính trị nên chúng thường thiên vị các ngành công nghiệp hiện có và 
gây ra tình trạng tham nhũng và không linh hoạt về tài chính. Nói chung, trợ 
cấp thường được áp dụng chủ yếu cho các trường hợp R&D, tạo lập và phát 
triển các ngành mới, khuyến khích xuất khẩu... 
+ Tín dụng theo chính sách: Nhà nước đưa ra các tiêu chuẩn nhằm 
cung cấp tài chính thông qua các ngân hàng, các quỹ với lãi suất ưu đãi đối 
với các đối tượng thoả mãn với các tiêu chuẩn đó. Nói chung, so với những 
công cụ tài chính ở trên, công cụ này có một số đặc tính được coi là ưu việt 
hơn, cụ thể là: có tính linh hoạt và khả năng điều chỉnh cao, có khả năng 
 12
định hướng hành vi đầu tư tư nhân và đặc biệt được thực hiện thông qua thị 
trường dựa trên các tiêu chuẩn rõ ràng, cho trước. 
+ Các biện pháp cung cấp cơ sở hạ tầng: Khi Nhà nước thực hiện các 
biện pháp cung cấp cơ sở hạ tầng cứng hoặc mềm cho một số ngành nhằm 
thúc đẩy những ngành này phát triển thì đây là công cụ của CSCN. Công cụ 
này có ý nghĩa hết sức tích cực vì ngoài việc tăng cường hiệu quả hoạt động 
của những ngành được lựa chọn nó còn góp phần phát triển tổng thể cơ sở 
hạ tầng tạo ra nền móng cho sự phát triển kinh tế lâu dài và bền vững của 
một quốc gia. 
- Cuối cùng là các công cụ liên quan tới thông tin: đó là những công cụ 
giúp cho việc trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp các ngành, hoặc tạo 
ra một cơ chế dựa vào đó thông tin có thể trao đổi. Nhóm công cụ này góp 
phần khắc phục tình trạng thông tin không hoàn hảo của thị trường và tạo 
điều kiện để các doanh nghiệp đưa ra những quyết định chính xác hơn, hiệu 
quả hơn. 
Như vậy, có thể thấy rằng, hệ thống công cụ của CSCN rất đa dạng, 
phong phú và mỗi công cụ chính sách có những ưu và nhược điểm khác 
nhau. Bên cạnh đó, các công cụ CSCN có tính đan xen khó tách biệt không 
chỉ trong bản thân CSCN mà còn giữa nó với các chính sách khác như chính 
sách thương mại, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu 
tư...Do đó, rất dễ dẫn đến sự xung đột trong bản thân CSCN hay giữa chính 
sách công nghiệp với các chính sách kinh tế khác. Vì vậy, bên cạnh những 
tiêu chuẩn như khả thi, thích hợp thì cần phải phối hợp khôn khéo các công 
cụ để đạt hiệu quả cao nhất. 
1.2. Cơ sở và giới hạn của chính sách công nghiệp. 
1.2.1. Cơ sở của chính sách công nghiệp 
Bản chất của CSCN là sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phân 
bổ nguồn lực giữa các ngành và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp 
 13
trong các ngành đó. Điều này gợi cho chúng ta một vấn đề là tại sao Nhà 
nước lại phải can thiệp ?. Mục này sẽ trình bày và phân