Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy sự phát triển thần kỳ
của Đông á. Mô hình phát triển của Đông á đã khiến các Chính phủ, các học
giả, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế phải suy ngẫm và học hỏi. Trong câu
chuyện thần kỳ đó, chính sách công nghiệp là một vấn đề rất được quan tâm.
Và mặc dù vai trò của nó đối với thành công của Đông á còn phải được xem
xét, khảo cứu, nhưng đến nay, chính sách công nghiệp đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện nay Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta về cơ bản thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Trong quá trình này, chúng ta cần xây dựng và thực
hiện được các chính sách công nghiệp vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước vừa đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới nhằm tạo cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Để
thực hiện được nhiệm vụ to lớn này, cùng với việc nghiên cứu, phân tích,
nắm bắt các qui luật khách quan và thực tiễn để đề ra các chính sách công
nghiệp có cơ sở khoa học, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của những
nước đi trước, đặc biệt là những nước trong khu vực có các điều kiện về
chính trị, văn hoá, xã hội tương đồng với chúng ta, là việc làm hết sức cần
thiết và bổ ích. Xuất phát từ bối cảnh đó, em chọn đề tài “ Chính sách công
nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ” làm khoá luận tốt nghiệp của
mình nhằm: góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
CSCN, phân tích các CSCN của Nhật Bản, Trung Quốc và rút ra những bài
học kinh nghiệm cho quá trình hoạch định và thực thi CSCN, và trên cơ sở
đó trình bày một số kiến nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Với mục tiêu như vậy, ngoài
các phần “Mở đầu”, “Kết luận” và “Danh mục tài liệu tham khảo” kết cấu
của khoá luận được trình bày thành ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận của chính sách công nghiệp.
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật
Bản và Trung Quốc.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện
chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
87 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách công nghiệp: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Chính sách công nghiệp - Lý
luận và kinh nghiệm quốc tế
2
Mở đầu
Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy sự phát triển thần kỳ
của Đông á. Mô hình phát triển của Đông á đã khiến các Chính phủ, các học
giả, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế phải suy ngẫm và học hỏi. Trong câu
chuyện thần kỳ đó, chính sách công nghiệp là một vấn đề rất được quan tâm.
Và mặc dù vai trò của nó đối với thành công của Đông á còn phải được xem
xét, khảo cứu, nhưng đến nay, chính sách công nghiệp đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện nay Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta về cơ bản thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Trong quá trình này, chúng ta cần xây dựng và thực
hiện được các chính sách công nghiệp vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước vừa đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới nhằm tạo cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Để
thực hiện được nhiệm vụ to lớn này, cùng với việc nghiên cứu, phân tích,
nắm bắt các qui luật khách quan và thực tiễn để đề ra các chính sách công
nghiệp có cơ sở khoa học, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của những
nước đi trước, đặc biệt là những nước trong khu vực có các điều kiện về
chính trị, văn hoá, xã hội tương đồng với chúng ta, là việc làm hết sức cần
thiết và bổ ích. Xuất phát từ bối cảnh đó, em chọn đề tài “ Chính sách công
nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ” làm khoá luận tốt nghiệp của
mình nhằm: góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
CSCN, phân tích các CSCN của Nhật Bản, Trung Quốc và rút ra những bài
học kinh nghiệm cho quá trình hoạch định và thực thi CSCN, và trên cơ sở
đó trình bày một số kiến nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách
3
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Với mục tiêu như vậy, ngoài
các phần “Mở đầu”, “Kết luận” và “Danh mục tài liệu tham khảo” kết cấu
của khoá luận được trình bày thành ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận của chính sách công nghiệp.
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật
Bản và Trung Quốc.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện
chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
4
Chương 1
Những vấn đề lý luận của Chính sách công nghiệp
Chính sách công nghiệp là một phần đặc biệt trong câu chuyện thần kỳ
Đông á. Sự đánh giá về vai trò của nó đối với thành công của Đông á đã gây
rất nhiều tranh cãi. Đó là bởi vì chính sách công nghiệp (CSCN) bên cạnh
những mặt tích cực còn có những mặt trái rõ rệt. Nó thường bị coi là hành vi
trục lợi của một số nhóm đặc quyền và là nguồn gốc của sự tham nhũng, tiêu
cực trong giới quan chức chính phủ... Nhiệm vụ của chương này là hệ thống
hoá một số vấn đề về lý luận của CSCN, bao gồm: khái niệm, nội dung, mục
tiêu và công cụ của CSCN…Ngoài ra, những điều kiện để có một chính sách
công nghiệp hữu hiệu cũng được đưa vào và xem xét trên cơ sở lý thuyết
kinh tế. Đây là những căn cứ quan trọng để tác giả phân tích CSCN trong
các phần tiếp theo.
1.1. Tổng quan về chính sách công nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về chính sách công nghiệp.
Việc thảo luận về chính sách công nghiệp nhiều khi gặp khó khăn. Vì
cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm chuẩn thống nhất về CSCN. Có
nhiều người quan niệm CSCN là những chính sách được nhằm vào ngành
công nghiệp. Một số khác định nghĩa CSCN theo cách hẹp hơn, họ cho rằng
CSCN chỉ là những chính sách liên quan tới việc khuyến khích và tổ chức
lại các ngành công nghiệp riêng biệt nào đó. Trong khi đó, một số nhà
nghiên cứu thì định nghĩa CSCN hết sức chung chung, coi CSCN là công
cụ, biện pháp để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục
tiêu nhất định. Tuy nhiên, theo tác giả đề tài này, mặc dù các quan niệm trên
không hoàn toàn sai nhưng những quan niệm này là chưa đầy đủ hoặc không
rõ ràng. Vì những quan niệm này đã xác định không chính xác mục tiêu, đối
tượng, nội dung cũng như cơ chế thực hiện của CSCN.
5
Phân tích về mặt thuật ngữ, cụm từ “chính sách công nghiệp” được
xuất hiện vào đầu những năm 1970, đầu tiên là ở Nhật Bản. Theo tiếng
Nhật, chính sách công nghiệp là “Sangyo Seisaku”. Còn trong tiếng Anh,
CSCN được gọi là “Industrial Policy”. Từ “Industry” có hai nghĩa, bao gồm:
(i) ngành chế tạo hay sản xuất; (ii) công nghiệp, kinh doanh. Như vậy, thuật
ngữ “ chính sách công nghiệp “ có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau là
chính sách điều chỉnh ngành công nghiệp hoặc chính sách ngành và nó gây
ra những sự lầm lẫn trong việc tìm hiểu và phân tích về CSCN.
Xét về nội dung, chính sách công nghiệp được nhìn nhận rất khác nhau:
- Theo Ryutaro Komiya, căn cứ vào các chính sách phát triển công
nghiệp của Nhật Bản, ông coi CSCN là “ các chính sách của chính phủ
thuộc loại mà nếu không được vận dụng, sẽ có một sự phân bổ nguồn lực
theo cách khác giữa các ngành hoặc mức khác biệt về khía cạnh nào đó của
hoạt động kinh tế của các hãng cấu thành một ngành công nghiệp ”. Tuy
nhiên sau đó ông đã sửa đổi và mở rộng định nghĩa này, ông cho rằng CSCN
bao gồm các chính sách ảnh hưởng tới sự phân bổ nguồn lực cho các ngành
công nghiệp và các chính sách ảnh hưởng tới tổ chức ngành. [5, 15].
- Cũng có quan điểm khá tương đồng với quan niệm trên, Motoshige
Ito, trong cuốn sách “Phân tích kinh tế về chính sách công nghiệp”, đã cho
rằng “chính sách công nghiệp là chính sách nhằm tác động tới phúc lợi kinh
tế của một quốc qua thông qua việc Chính phủ can thiệp vào lĩnh vực phân
bổ các nguồn lực giữa các ngành, các khu vực của một quốc gia và can thiệp
vào tổ chức sản xuất của các ngành/khu vực nào đó”. Theo quan niệm này,
đối tượng của CSCN không chỉ là các ngành công nghiệp mà còn là các
ngành khác đồng thời CSCN vừa bao gồm chính sách có tác động liên
ngành, vừa bao gồm chính sách có tác động tới nội bộ một ngành. [60, 23].
- Nhấn mạnh đến khía cạnh phân bổ nguồn lực, Paul Krugman coi
CSCN là “ sự nỗ lực của Chính phủ nhằm huy động các nguồn lực cho các
6
khu vực riêng biệt được xem là quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong
tương lai và do đó CSCN luôn thúc đẩy một số bộ phận của nền kinh tế
thông qua việc gây bất lợi cho các bộ phận khác ”. [460, 11].
Những quan điểm trên cho thấy việc cho rằng CSCN nhằm điều chỉnh
ngành công nghiệp là không thật chính xác. Tất nhiên, lĩnh vực công nghiệp
là lĩnh vực sản xuất chủ yếu của nền kinh tế, phát triển công nghiệp là nền
tảng quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển, thế nhưng bên cạnh lĩnh vực
công nghiệp còn có các lĩnh vực khác và thực tế cho thấy rằng có một số
quốc gia đã sử dụng những chính sách, mà bản chất của nó giống như các
CSCN được đề cập ở trên, để thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực đó như
Mỹ chẳng hạn. Chính phủ Mỹ đã có vai trò chính trong việc phát triển các
ngành nông nghiệp thông qua các biện pháp trợ cấp, hỗ trợ nghiên cứu và
triển khai... [485, 11]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong khuôn khổ lý thuyết
kinh tế, khái niệm “chính sách công nghiệp” cần được hiểu là chính sách
ngành. Đó là các chính sách ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực giữa các
ngành cũng như các doanh nghiệp trong những ngành đó và các chính sách
ảnh hưởng tới tổ chức ngành. [230, 3].
Tóm lại, trên cơ sở các phân tích nêu trên, đề tài này đặt trọng tâm của
CSCN vào “các chính sách, biện pháp được Nhà nước sử dụng để tác động
đến sự phân bổ nguồn lực giữa các ngành cũng như giữa các doanh nghiệp
trong các ngành đó nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển”. Đối tượng CSCN là
các doanh nghiệp, các ngành hoạt động sản xuất. Do đó, CSCN khác với các
chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế vĩ mô được xây dựng trên
quan điểm vĩ mô còn CSCN được hoạch định trên quan điểm vi mô để can
thiệp vào hành vi của các doanh nghiệp, các ngành.Ví dụ như với chính sách
tài chính, đối tượng của chính sách là tổng thể nền kinh tế, Nhà nước can
thiệp theo hướng tăng chi tiêu sẽ mở rộng tổng cầu từ đó nó làm thay đổi sản
lượng, thu nhập, việc làm... những biến số kinh tế vĩ mô; còn trong một
7
CSCN, nhìn ở giác độ ngành kinh tế, việc Chính phủ trợ cấp cho một ngành
phát triển sản xuất sẽ khiến Chính phủ phải chuyển nguồn lực từ các ngành
khác sang ngành này và do đó nó không trực tiếp ảnh hưởng đến các biến số
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên về dài hạn, CSCN cũng ảnh hưởng đến các biến số
kinh tế vĩ mô vì nó điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu thương mại, ảnh hưởng
tới việc làm, sản lượng, chu kỳ kinh doanh, tác động đến cơ sở hạ tầng, công
nghệ và năng suất tạo ra lợi thế cạnh tranh mới ảnh hưởng đến giá cả... Mặt
khác, các mục tiêu vĩ mô cũng sẽ điều chỉnh CSCN cho nên quan điểm phân
chia vi mô, vĩ mô chỉ mang tính chất tương đối.
1.1.2. Mục tiêu và công cụ của chính sách công nghiệp
1.1.2.1. Mục tiêu của chính sách công nghiệp
Các chính sách công nghiệp hiện thời nhằm vào vô số mục tiêu, trong
số đó có nhiều mục tiêu phi kinh tế. Tuy nhiên, đề tài này chỉ hướng trọng
tâm vào các chính sách được thực thi vì những lý do kinh tế. Về cơ bản, các
chính sách kinh tế phải hướng tới các mục tiêu kinh tế chung như tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định giá cả, đảm bảo đầy đủ công ăn
việc làm ở mức độ cao và cân bằng cán cân thanh toán đồng thời góp phần
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Chính sách công nghiệp không phải là một trường hợp ngoại
lệ. Song song với mục tiêu chung này, mục tiêu trực tiếp của CSCN là tạo ra
được một cơ cấu ngành hợp lý trên cơ sở thúc đẩy một số ngành phát triển,
có sức cạnh tranh quốc tế và có khả năng hỗ trợ nền kinh tế thị trường. Với
các mục tiêu như vậy, nội dung chủ yếu của CSCN là lựa chọn những ngành
cần ưu tiên và các biện pháp thúc đẩy những ngành này phát triển hoặc ở
một khía cạnh khác, đó là xác định những ngành suy thoái hay phải hạn chế
và phương thức “giải thoát” các nguồn lực khan hiếm ra khỏi những ngành
đó một cách hợp lý.
8
Khi xem xét mục tiêu của CSCN, rất dễ có sự lầm lẫn với chính sách
cơ cấu ngành kinh tế. Vấn đề cần lưu ý ở đây là chính sách cơ cấu ngành
kinh tế thường có phạm vi và nhiệm vụ rộng lớn hơn nhiều so với CSCN.
Chính sách cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện nhằm điều chỉnh hoạt động
sản xuất giữa các ngành và nội bộ ngành trong nền kinh tế quốc dân theo
định hướng chiến lược phát triển ngành trong từng giai đoạn nhất định, nội
dung của nó phản ánh sự thay đổi tỷ trọng của các ngành và nội bộ ngành
trong nền kinh tế. [279, 7]. Còn CSCN chỉ can thiệp vào sự phân bổ nguồn
lực giữa các ngành cũng như các doanh nghiệp trong những ngành đó do có
sự tồn tại của các thất bại thị trường với nội dung chủ yếu là lựa chọn và
thúc đẩy những ngành cần ưu tiên hay hợp lý hoá những ngành cần hạn chế .
Mặt khác, cần phải nói thêm rằng, mục tiêu cũng như các giải pháp chính
sách của CSCN được xem xét là tạm thời hay chiến lược, dài hạn hay ngắn
hạn sẽ tuỳ thuộc vào từng Chính phủ, từng giai đoạn phát triển kinh tế cũng
như bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước của mỗi quốc gia. Ví dụ như Nhật
Bản trong những năm 50, mục tiêu trọng tâm của CSCN là phục hồi sản
xuất cho nên CSCN là chính sách tái thiết với việc thiết kế hệ thống sản xuất
ưu tiên; còn Mỹ trong những năm 90 khi mà nền kinh tế thị trường đã hoàn
thiện thì mục tiêu và nội dung của CSCN được gắn với việc điều chỉnh cơ
cấu ngành, chủ yếu là cơ cấu công nghiệp.
Xét một cách tiếp cận khác đối với mục tiêu của CSCN, CSCN bao
gồm các chính sách mà dựa vào đó Chính phủ của một nước quyết tâm tạo
ra một cơ cấu ngành, đặc biệt là cơ cấu công nghiệp được cho là lý tưởng
đối với sự phát triển kinh tế như: các chính sách bảo vệ những ngành công
nghiệp “non trẻ”, xúc tiến sự phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, hỗ
trợ hay hợp lý hoá các ngành suy thoái…, và điều này đặc biệt có ý nghĩa
đối với một nền kinh tế mở. Theo mô hình lý thuyết lợi thế so sánh của
D.Ricardo, với giả định cơ cấu công nghiệp có sẵn các quốc gia sẽ được lợi
9
nếu xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh và nhập khẩu các hàng hoá
có ít lợi thế so sánh hơn.Vì vậy, khi cơ cấu công nghiệp thay đổi theo hướng
tạo ra sự thay đổi về lợi thế so sánh thì thông qua cơ cấu thương mại sự tái
phân phối thu nhập giữa các quốc gia xảy ra, những nước phát huy được lợi
thế mới này sẽ được lợi. Như vậy, theo cách tiếp cận này, có thể coi CSCN
là một chính sách được thực hiện nhằm tăng cường phúc lợi kinh tế của một
quốc gia bằng cách làm giảm phúc lợi của nước khác. Đây cũng là một trong
những nguốn gốc dẫn đến các xung đột thương mại quốc tế.
1.1.2.2. Công cụ của chính sách công nghiệp
Chính sách công nghiệp thực hiện các mục tiêu và nội dung của mình
thông qua một hệ thống các công cụ. Đó là hệ thống những phương tiện
truyền dẫn các phương thức tác động lên đối tượng của CSCN. Hệ thống
này bao gồm những nhóm công cụ cơ bản sau:
- Những công cụ kinh tế là ngân sách, các quỹ, hệ thống đòn bảy
khuyến khích kinh tế như thuế, trợ cấp, lãi suất....
- Những công cụ hành chính, tổ chức gồm có: các công cụ hành chính
là các kế hoạch, quy hoạch của Nhà nước và hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật, các công cụ tổ chức như mô hình tổ chức bộ máy và đội ngũ cán
bộ công chức tham gia vào quá trình hoạch định và triển khai.
- Những công cụ tuyên truyền, giáo dục là hệ thống thông tin đại chúng
liên ngành, các hiệp hội...
- Những công cụ mang tính kỹ thuật và nghiệp vụ như công tác kiểm
tra, thu thập thông tin, các tiêu chuẩn kỹ thuật...
Kinh nghiệm từ hoạt động thực thi CSCN trên thế giới và đặc biệt là
của Nhật Bản cho thấy rằng, có thể chia công cụ CSCN thành ba loại chủ
yếu: các công cụ điều chỉnh trực tiếp, các công cụ khuyến khích gián tiếp và
các công cụ liên quan tới thông tin.
10
- Nhóm công cụ điều chỉnh trực tiếp bao gồm việc cấp giấy phép hoặc
bản quyền, phân phối hàng hoá, kiểm soát sự gia nhập ngành mới, việc hình
thành những cácten...Những công cụ như vậy thường có hiệu ứng phụ vì
chúng có khuynh hướng tạo nên sự khác biệt tuyệt đối giữa các đối tượng
chịu sự điều chỉnh của luật với các đối tượng khác. Hơn nữa, với những
công cụ mang tính kế hoạch, chúng có thể gây ra trở ngại đối với quyền tự
trị và sự phát triển của ngành bị can thiệp, đặc biệt khi các ngành này trưởng
thành.
- Nhóm công cụ khuyến khích gián tiếp bao gồm các khuyến khích về
tài chính như thuế, trợ cấp, thuế quan và vốn cho vay của Chính phủ và các
công cụ ảnh hưởng đến môi trường mà ở đó doanh nghiệp, ngành hoạt động
như các hạn chế thương mại và quy chế đầu tư. ở đây, tác giả chỉ phân tích
một số công cụ chủ yếu:
+ Hệ thống thuế: Thuế là một khoản chi phí mà Nhà nước yêu cầu các
cá nhân, tổ chức phải nộp trong một điều kiện nhất định. Thuế thường có ba
loại: thuế thu nhập (thuế trực thu), thuế tiêu dùng (thuế gián thu) và thuế tài
sản. Vì thuế được tính vào chi phí nên nó có thể ảnh hưởng tới giá cả làm
lệch lạc tín hiệu giá cả, thực hiện sự phân bổ nguồn lực theo ý đồ của Nhà
nước. Trong phạm vi CSCN, để thúc đẩy một ngành phát triển, Nhà nước có
thể thực hiện giảm thuế hay thậm chí miễn thuế đối với ngành đó. Một biện
pháp quan trọng trong việc giảm thuế là Nhà nước đưa ra hệ thống khấu hao.
Đó là một hệ thống được thiết kế để phân bổ các chi phí phải chịu về máy
móc thiết bị trong khoảng thời gian tồn tại được quy định của tài sản đó mà
không tính tới chi phí về lãi suất và lạm phát trong thời kỳ có liên quan. Nếu
thời gian tồn tại được quy định của tài sản càng ngắn tức là tài sản được
khấu hao nhanh thì mức tiết kiệm thuế thu nhập càng lớn và lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ tăng lên. Do đó, ngoài biện pháp giảm thuế, để tạo ưu thế
cho một số ngành, đặc biệt đối với các ngành phục vụ xuất khẩu hoặc những
11
ngành quan trọng có thời gian thu hồi vốn dài, Nhà nước có thể cho phép
những ngành đó khấu hao nhanh những thiết bị, máy móc quan trọng, đắt
tiền. Nói chung, biện pháp này ít tạo ra những méo mó về giá cả nên nó hay
được sử dụng.
- Thuế quan bảo hộ là loại thuế đánh vào các hàng hoá xuất nhập khẩu,
thuế quan nhập khẩu thường là một trường hợp điển hình hơn. Đây là công
cụ hữu hiệu của CSCN xét trên phương diện nó thực hiện mục tiêu phát
triển một số ngành nào đó nhất là những ngành “công nghiệp non trẻ”. Tuy
nhiên, kết quả là mặc dù tạo ra công ăn việc làm, tạo đà phát triển cho ngành
công nghiệp non trẻ, nhưng nó lại tạo ra gánh nặng thuế quan cho người tiêu
dùng và hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra thời gian bảo hộ bằng thuế quan mà
quá dài thì sẽ ảnh hưởng đến tình trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước khiến họ không thể lớn mạnh lên được.
- Trợ cấp: Về mặt phân bổ nguồn lực thì tác động của trợ cấp cũng
tương tự như thuế. Ngoài ra, do trợ cấp thực tế sẽ làm giảm lượng vốn và
phụ phí cho đầu tư nên nó có hiệu quả đáng kể định hướng hành vi của các
doanh nghiệp nhưng mặt trái của điều này là chúng cũng hạn chế cách ứng
xử của doanh nghiệp. Mặt khác, trợ cấp thường được phân bổ thông qua quá
trình chính trị nên chúng thường thiên vị các ngành công nghiệp hiện có và
gây ra tình trạng tham nhũng và không linh hoạt về tài chính. Nói chung, trợ
cấp thường được áp dụng chủ yếu cho các trường hợp R&D, tạo lập và phát
triển các ngành mới, khuyến khích xuất khẩu...
+ Tín dụng theo chính sách: Nhà nước đưa ra các tiêu chuẩn nhằm
cung cấp tài chính thông qua các ngân hàng, các quỹ với lãi suất ưu đãi đối
với các đối tượng thoả mãn với các tiêu chuẩn đó. Nói chung, so với những
công cụ tài chính ở trên, công cụ này có một số đặc tính được coi là ưu việt
hơn, cụ thể là: có tính linh hoạt và khả năng điều chỉnh cao, có khả năng
12
định hướng hành vi đầu tư tư nhân và đặc biệt được thực hiện thông qua thị
trường dựa trên các tiêu chuẩn rõ ràng, cho trước.
+ Các biện pháp cung cấp cơ sở hạ tầng: Khi Nhà nước thực hiện các
biện pháp cung cấp cơ sở hạ tầng cứng hoặc mềm cho một số ngành nhằm
thúc đẩy những ngành này phát triển thì đây là công cụ của CSCN. Công cụ
này có ý nghĩa hết sức tích cực vì ngoài việc tăng cường hiệu quả hoạt động
của những ngành được lựa chọn nó còn góp phần phát triển tổng thể cơ sở
hạ tầng tạo ra nền móng cho sự phát triển kinh tế lâu dài và bền vững của
một quốc gia.
- Cuối cùng là các công cụ liên quan tới thông tin: đó là những công cụ
giúp cho việc trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp các ngành, hoặc tạo
ra một cơ chế dựa vào đó thông tin có thể trao đổi. Nhóm công cụ này góp
phần khắc phục tình trạng thông tin không hoàn hảo của thị trường và tạo
điều kiện để các doanh nghiệp đưa ra những quyết định chính xác hơn, hiệu
quả hơn.
Như vậy, có thể thấy rằng, hệ thống công cụ của CSCN rất đa dạng,
phong phú và mỗi công cụ chính sách có những ưu và nhược điểm khác
nhau. Bên cạnh đó, các công cụ CSCN có tính đan xen khó tách biệt không
chỉ trong bản thân CSCN mà còn giữa nó với các chính sách khác như chính
sách thương mại, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu
tư...Do đó, rất dễ dẫn đến sự xung đột trong bản thân CSCN hay giữa chính
sách công nghiệp với các chính sách kinh tế khác. Vì vậy, bên cạnh những
tiêu chuẩn như khả thi, thích hợp thì cần phải phối hợp khôn khéo các công
cụ để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Cơ sở và giới hạn của chính sách công nghiệp.
1.2.1. Cơ sở của chính sách công nghiệp
Bản chất của CSCN là sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phân
bổ nguồn lực giữa các ngành và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
13
trong các ngành đó. Điều này gợi cho chúng ta một vấn đề là tại sao Nhà
nước lại phải can thiệp ?. Mục này sẽ trình bày và phân