Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đã và đang diễn ra trên quy mô toàn
cầu với khối lượng và nhịp độ chu chuyển ngày càng lớn. Đối với các nước
đang phát triển, bên cạnh việc phát huy nguồn nội lực trong nước, tận dụng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một con đường để rút ngắn thời gian tích luỹ
vốn ban đầu, tạo nên tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế. Chính vì lẽ đó
mà FDI được coi như " chiếc chìa khoá vàng " để mở ra cánh cửa thịnh vượng
cho mỗi quốc gia.
Việt Nam cũng không thể đứng ngoài trước luồng xoáy của sự vận động
kinh tế thế giới đang diễn ra từng ngày, từng giờ này. Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam ban hành năm 1987 đánh dấu bước khởi đầu quá trình mở cửa nền
kinh tế, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, kết hợp chặt
chẽ giữa việc phát huy có hiệu quả nguồn nội lực trong nước với việc thu hút
tối đa các nguồn lực bên ngoài cho chiến lược phát triển kinh tế.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ (lĩnh vực
công nghiệp thu hút tới gần 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài ) là rất phù hợp
với chủ trương của nước ta. Trong thế kỷ 21, nước ta chủ trương phát triển kinh
tế theo định hướng xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp chế biến xuất
khẩu có khả năng cạnh tranh, có triển vọng thị trường và phát triển một số
ngành công nghiệp mũi nhọn làm nền tảng cho nền kinh tế cất cánh. Do vậy,
chúng ta phải ý thức được vai trò và vị trí đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước của ngành công nghiệp .
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp:
" Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp -Thực trạng và
giải pháp ".Mục đích của đề tàilà trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản
về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam và từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp là đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1988-2001
Khoá luận đã sử dụng tổnghợp các phương pháp nghiên cứu như :
phương pháp phân tích định tính và định lượng, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích kinh tế, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để xem xét và đánh giá, giúp các vấn đề nghiên cứu thêm sâu sắc.
Kết cấu của khóa luận ngoài Lời nói đầu và Kết luận gồm có 3 chương:
Chương I: Khái quát về công nghiệp Việt Nam và kinh nghiệm một số
nước về thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp .
Chương II : Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công
nghiệp
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp
87 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1882 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP
-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Người thực hiện : Nguyễn Thị Loan
Lớp : A1 - K37A
Giáo viên hướng dẫn : TS. Vũ Thị Kim Oanh
HÀ NỘI – 2002
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đã và đang diễn ra trên quy mô toàn
cầu với khối lượng và nhịp độ chu chuyển ngày càng lớn. Đối với các nước
đang phát triển, bên cạnh việc phát huy nguồn nội lực trong nước, tận dụng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một con đường để rút ngắn thời gian tích luỹ
vốn ban đầu, tạo nên tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế. Chính vì lẽ đó
mà FDI được coi như " chiếc chìa khoá vàng " để mở ra cánh cửa thịnh vượng
cho mỗi quốc gia.
Việt Nam cũng không thể đứng ngoài trước luồng xoáy của sự vận động
kinh tế thế giới đang diễn ra từng ngày, từng giờ này. Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam ban hành năm 1987 đánh dấu bước khởi đầu quá trình mở cửa nền
kinh tế, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, kết hợp chặt
chẽ giữa việc phát huy có hiệu quả nguồn nội lực trong nước với việc thu hút
tối đa các nguồn lực bên ngoài cho chiến lược phát triển kinh tế.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ (lĩnh vực
công nghiệp thu hút tới gần 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài ) là rất phù hợp
với chủ trương của nước ta. Trong thế kỷ 21, nước ta chủ trương phát triển kinh
tế theo định hướng xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp chế biến xuất
khẩu có khả năng cạnh tranh, có triển vọng thị trường và phát triển một số
ngành công nghiệp mũi nhọn làm nền tảng cho nền kinh tế cất cánh. Do vậy,
chúng ta phải ý thức được vai trò và vị trí đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước của ngành công nghiệp .
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp:
" Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp - Thực trạng và
giải pháp ". Mục đích của đề tài là trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản
về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam và từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp là đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1988-2001
Khoá luận đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như :
phương pháp phân tích định tính và định lượng, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích kinh tế, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
…để xem xét và đánh giá, giúp các vấn đề nghiên cứu thêm sâu sắc.
Kết cấu của khóa luận ngoài Lời nói đầu và Kết luận gồm có 3 chương:
Chương I: Khái quát về công nghiệp Việt Nam và kinh nghiệm một số
nước về thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp .
Chương II : Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công
nghiệp
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp.
Hà Nội ngày 16 tháng 12 năm 2002
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Loan
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM TỪ
MỘT SỐ NƯỚC VỀ THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHIỆP
1. Khái quát về công nghiệp Việt Nam
Với nội dung trình bày khái quát về quá trình phát triển của công nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua, phần này nhằm đưa ra một cách nhìn nhận có
tính xuyên suốt và tổng thể về quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp
Việt Nam, làm cơ sở cho những phân tích và đánh giá về hoạt động đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp ở các phần tiếp theo.
1.1. Con đường phát triển của công nghiệp Việt Nam
Quá trình phát triển công nghiệp Việt Nam kể từ 1945 đến nay đã diễn
ra hơn một nửa thế kỷ, trải qua nhiều thời kì với những đặc điểm và điều kiện
rất khác nhau. Sau ngày đất nước dành được độc lập, công nghiệp Việt Nam
được phát triển từ một điểm xuất phát quá thấp, phát triển trên di sản của một
nền công nghiệp bị chi phối bởi các chính sách kinh tế của thực dân Pháp, lạc
hậu xa so với các nước phát triển. Nền kinh tế, trong đó có công nghiệp, phát
triển què quặt, thấp kém và lệ thuộc vào công nghiệp của nước Pháp đế quốc.
Thiết bị, máy móc, công nghệ , tất cả đều nhập từ Pháp. Thực dân Pháp dựa
vào nguồn lao động dồi dào và rẻ mạt, duy trì nền sản xuất thủ công lạc hậu,
quy mô nhỏ để khai thác tài nguyên thành nguyên liệu đưa về chế biến sản
phẩm ở chính quốc. Do vậy, thực trạng công nghiệp Việt Nam lúc đó là : tỷ
trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quá nhỏ bé, công nghiệp hầu như
không gắn với nông nghiệp và phục vụ phát triển nông nghiệp, quy mô sản xuất
nhỏ, trình độ kỹ thuật thủ công lạc hậu. Mặc dù trong quá trình phát triển sau
này, đặc điểm này có sự thay đổi song cho đến nay vẫn còn thể hiện khá đậm
nét.
Thời kì 1945-1954, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến đánh đuổi
thực dân Pháp bảo vệ độc lập dân tộc. Về kinh tế, Đảng chú trọng ưu tiên phát
triển nông nghiệp, thứ đến là thủ công nghiệp và thương nghiệp, công nghiệp
chỉ được xếp vào hàng thứ tư trong cơ cấu kinh tế trong đó quan trọng nhất là
công nghiệp chế tạo vũ khí. Thời kì khôi phục và cải tạo nền kinh tế 1955-
1960, công nghiệp được hướng trọng tâm vào khôi phục lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất với 2 loại hình doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh và hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp . Thời kì 1960-1986, cả nước tiếp tục xây dựng cơ
sở vật chất cho nền kinh tế XHCN, đường lối phát triển kinh tế xuyên suốt của
Đảng ( được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng III, các kì Đại hội sau tuy có
một số điều chỉnh nhưng không lớn ) là : "…chủ yếu ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, trong đó điện phải đi trước một bước, cơ khí là trung tâm, than thép là
lương thực của nền kinh tế quốc dân…"
Công cuộc đổi mới cơ chế nền kinh tế của Việt Nam được mở đầu bằng
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 1986 ). Kinh tế Việt Nam kể từ khi bắt đầu
công cuộc đổi mới đến giữa những năm 90 đã bước vào giai đoạn phát triển ổn
định và tăng trưởng cao, cơ cấu nền kinh tế quốc dân được chuyển đổi theo
hướng tích cực. Những chủ trương, chính sách và biện pháp đổi mới của Đảng
từ sau Đại hội VI đã tạo ra những bước chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong
lĩnh vực công nghiệp. Công nghiệp nói chung phát triển theo hướng gia tăng
tương đối tỷ trọng các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi vẫn duy trì
được một số ngành công nghiệp nặng có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế.
Sản xuất công nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục, tạo
tiền đề vững chắc hơn trong các năm sau. Đáng chú ý là trong những năm tiến
hành đổi mới, nhờ có chính sách đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc
biệt là việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tháng 12 năm 1987
đã mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế, khoa học - kĩ thuật với nhiều nước trên thế
giới, trình độ khoa học - công nghệ của Việt Nam đã có bước phát triển tích
cực, cho phép nước ta bắt đầu đầu tư theo chiều sâu đối với một số ngành công
nghiệp quan trọng đối với nền kinh tế. Chính sách mở cửa nền kinh tế, tăng
cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy hiệu quả tích cực đối với sản
xuất công nghiệp của cả nước. Giai đoạn 1996-2000 thành tựu của công nghiệp
Việt Nam có thể khái quát như sau :
Một số ngành công nghiệp tiếp tục được sắp xếp và tổ chức lại sản xuất,
lựa chọn các sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị trường để đầu tư
chiều sâu, đổi mới công nghệ , đạt chất lượng cao hơn.
Năng lực sản xuất của một số sản phẩm công nghiệp tăng đáng kể, công
suất điện năng tăng trong 5 năm khoảng 1.470 MW, công suất khai thác dầu
thô tăng 9,4 triệu tấn, công suất khai thác than tăng 216 triệu tấn, sản xuất thép
tăng 1,4 triệu tấn, sản xuất xi măng tăng 9,8 triệu tấn, sản xuất giấy tăng 6 vạn
tấn. Đến năm 2000, công suất chế biến đường có khoảng 82.000 tấn mía/ ngày,
chế biến thuỷ sản trên 1000 tấn/ ngày, chế biến cao su 290 nghìn tấn mủ tươi,
chế biến chè 90 nghìn tấn chè búp thô, chế biến hạt điều trên 220.000 tấn, chế
biến gỗ 2 triệu m3 gỗ/năm. Hiện đã hình thành 67 khu công nghiệp, khu chế
xuất và khu công nghệ cao, thu hút được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài
nước đầu tư sản xuất kinh doanh.
Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến
nhiều ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng nhu cầu trong nước,
không những đã thay thế được hàng nhập khẩu mà còn đóng góp đáng kể vào
việc tăng kim ngạch xuất khẩu ( dầu thô tăng trên 16%, khai thác khí tăng 43%,
điện tăng 14%….)
Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành
một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp , khu chế xuất với nhiều
cơ sở sản xuất có công nghệ hiện đại. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác
chiếm khoảng 15% tổng giá trị sản xuất toàn ngành trong đó khai thác dầu khí
chiếm 11,2%, công nghiệp chế tạo chiếm 79%, trong đó công nghiệp sản xuất
thực phẩm chiếm khoảng 23,6%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí
đốt, nước, chiếm khoảng 6% trong đó công nghiệp điện chiếm 5,4%.
Giá trị sản xuất công nghiệp tuy chưa đạt kế hoạch nhưng vẫn tăng với
mức khá cao, bình quân hàng năm tăng 13,5 %, trong đó công nghiệp quốc
doanh tăng 10%/ năm, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5%/năm, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%/năm. Năm 2000, công
nghiệp quốc doanh chiếm khoảng 42% giá trị sản lượng toàn ngành, công
nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 24,3% và công nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nước ngoài chiếm 35,6%.
Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp 5 năm đạt trên 34 tỷ USD, tăng từ 3
tỷ USD năm 2995 lên 10,1 tỷ USD năm 2000 và chiếm 66% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước.
Về kết quả năm 2001, theo báo cáo của Bộ Công nghiệp , giá trị sản xuất
công nghiệp toàn ngành đạt 223,578 tỷ đồng, tăng 14,47% so với năm 2000.
Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, công nghiệp quốc doanh Trung ương
tăng 12,84 % nhờ nhiều ngành có tỷ trọng lớn và sản phẩm quan trọng vẫn
tăng. Trong đó những ngành có mức tăng trên 10% gồm : điện sản xuất, than,
thép và sản phẩm thép, động cơ điện các loại , máy công cụ, quạt điện, máy
biến thế, phân đạm, săm lốp ô tô, máy kéo, ắc quy, chất tẩy rửa, ống cứng và
phụ tùng, sản phẩm sứ các loại, mì ăn liền, dầu thực vật, xi măng..Công nghiệp
quốc doanh địa phương tăng 11,5% do nhiều địa phương có giá trị tăng, trong
đó có cả Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tuy tỷ trọng chỉ chiếm 23.49% nhưng
có mức tăng cao nhất trong các khu vực, một mặt do có thêm nhiều doanh
nghiệp mới thành lập, mặt khác nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh
doanh năng động, hiệu quả. Riêng khu vực đầu tư nước ngoài, ngành khai thác
dầu khí chỉ tăng 4,2% do hạn chế khai thác và giá dầu xuống thấp, nên tốc độ
tăng của khu vực này chỉ đạt 13.7%, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Về xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt khoảng 15,1 tỷ
USD, tăng 4,5% so với năm 2000; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ( trừ dầu mỏ ) chỉ tăng 3,2%, nguyên nhân chủ yếu là do giá xuất
khẩu nhiều mặt hàng giảm. Xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp đạt kim
ngạch 10,6 tỷ USD, tăng 4.9%, chiếm tỷ trọng 70,2% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước, trong đó công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 5,1 tỷ USD, bằng
thực hiện năm 2000; công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 5,5 tỷ USD,
tăng 9,9 %. Một số mặt hàng chủ yếu xuất khẩu tăng so với năm 2000 là hàng
dệt may, đạt 2 tỷ USD, tăng 5,71%; hàng giày dép đạt 1,5 tỷ USD, tăng 2,4%.
Trong bối cảnh kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, lại chịu tác động suy thoái
của kinh tế thế giới và thiên tai bão lụt nặng nề, thì việc đạt được tốc độ tăng
trưởng cao 14,47% là điều đáng khích lệ.
1.2. Tính cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam
Thị trường thế giới và khu vực ngày càng được mở rộng theo xu hướng tự
do hóa. Điều đó cho phép Việt Nam thực hiện chiến lược CNH hướng ra xuất
khẩu nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động
quốc tế. Nhằm thu hút tối đa ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam,
việc xem xét lợi thế so sánh của các ngành công nghiệp Việt Nam cũng như các
những điểm yếu ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh về thu hút nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa chiến lược.
1.2.1. Lợi thế so sánh của công nghiệp Việt Nam
Tài nguyên thiên nhiên :
Các loại tài nguyên thiên nhiên ( khoáng sản, lâm sản, hải sản ) và các
điều kiện tự nhiên ( thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục
địa… ) là những yếu tố hoặc trở thành đối tượng lao động để phát triển các
ngành khai thác chế biến, hoặc trở thành điều kiện để xây dựng và phát triển
các ngành công nghiệp.Việt Nam khá đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, và
nguồn lực này đóng vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp . Cả nước
có khoảng 7 triệu ha đất nông nghiệp và cây công nghiệp ( cà phê, cao su,
bông , thuốc lá…) tạo ra nguồn nguyên liệu đa dạng cho công nghiệp chế biến.
Tài nguyên khoáng sản Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng phong phú và
đa dạng với gần 100 loại, bao gồm cả kim loại và phi kim loại, tạo ra nguồn
nguyên, nhiên liệu đa dạng cho công nghiệp phát triển. Việt Nam có một số
loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn cho phép khai thác và sử dụng lâu dài cho
công nghiệp như than đá, dầu khí, đá vôi, cát silic, boxit, quặng sắt, quặng
apatit làm phân bón, v.v…Bên cạnh đó, nước ta có bờ biển dài, thềm lục địa
rộng cho phép đánh bắt và nuôi trồng hải sản quanh năm, cung cấp cho các nhà
máy chế biến hải sản xuất khẩu.
Nguồn lao động dồi dào và trẻ :
Dân số và lao động được coi là một nguồn lực quan trọng để phát triển
kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Trước hết, dân số và mức sống của
dân cư tạo thành thị trường nội địa to lớn mà các ngành công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng phải phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu. Thứ nữa, trình độ
dân trí , khả năng tiếp thu kỹ thuật mới của lao động tạo thành cơ sở quan trọng
để phát triển các ngành kỹ thuật cao. Những nước có nguồn lao động dồi dào,
trong cơ cấu công nghiệp phải chú ý đúng mức việc phát triển các ngành sử
dụng nhiều lao động để góp phần tạo việc làm, giải quyết tình trạng thất
nghiệp.
Việt Nam là nước đông dân, theo điều tra dân số tháng 4 năm 1999, dân
số Việt Nam hiện là 76 triệu người. Với số dân này, Việt Nam là quốc gia đông
dân đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam A' ( chỉ sau Indonesia, vượt cả
Philippin và Thái Lan ) và thứ 13 trên thế giới. Dân số Việt Nam thuộc loại trẻ,
cơ cấu nhóm tuổi trong tổng dân số ở tuổi lao động chiếm khoảng 50,5%. Tốc
độ gia tăng nguồn lao động trung bình 2,5% / năm. Hiện cả nước có khoảng 45
triệu lao động, trong đó 25% ở thành thị, 75% ở nông thôn. Dân cư và nguồn
lao động ở Việt Nam phân bổ không đều, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng
và ven biển . Dân số đông một mặt là lợi thế, nhưng mặt khác lại là trở ngại lớn
cho việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân.
Về thuận lợi Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, và rẻ so với các nước
trong khu vực. Lực lượng lao động trẻ có khả năng tiếp thu nhanh các kĩ thuật
và công nghệ mới tiên tiến, đặc biệt là các ngành công nghệ cao như công nghệ
thông tin, điện tử, chế tạo máy, sinh học, vật liệu mới, công nghệ môi trường và
các nguồn năng lượng mới.
Vị trí địa lý kinh tế thuận lợi
Vị trí địa lý kinh tế của đất nước cũng là một lợi thế cần được xem xét
khi xác định cơ cấu công nghiệp . Đó là một tất yếu trong điều kiện xây dựng
nền kinh tế mở, tăng cường và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế. Nhiều
nước có vị trí địa lý ở đầu mối của sự giao lưu kinh tế quốc tế, điều đó tạo
thành lợi thế so với các quốc gia khác.
Việt Nam có bờ biển dài, nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, là bao lơn nhìn ra
Thái Bình Dương, có nhiều tuyến đường giao thông, hàng hải, hàng không từ
Đông sang Tây; nhiều vịnh và cảng nước sâu thuận lợi cho hoạt động xuất nhập
khẩu, điều kiện giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực Đông Nam A' nói
riêng và khu vực Châu A'- Thái Bình Dương nói chung đặc biệt thuận lợi. Điều
này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh Châu A'- Thái Bình Dương đang
là một khu vực kinh tế đầy triển vọng của thế giới.
Tuy có những lợi thế cạnh tranh trên, nhưng trên thực tế chúng ta chưa
khai thác có hiệu quả những điều kiện thuận lợi này. Hơn nữa, nền công nghiệp
Việt Nam đang đứng trước rất nhiều những thách thức và khó khăn trong quá
trình phát triển. Những khó khăn và thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong
quá trình phát triển nói chung và trong khả năng cạnh tranh thu hút FDI sẽ
được trình bày cụ thể trong phần tiếp sau.
1.2.2. Những khó khăn và thách thức đang đặt ra
Thiếu vốn đầu tư :
Những năm qua, tỷ lệ tích luỹ GDP tuy đã tăng khá từ 25% năm 1991
tăng lên 27,1% vào năm 1995, 27,7% vào năm 1996 , trung bình đạt 27,4%
thấp hơn so với các nước trong khu vực. Trong tổng số vốn đầu tư, phần tiết
kiệm ( tích luỹ trong nước ) cũng tăng từ 13,2% năm 1991 lên 21,4% năm 1995
, nhưng từ năm 1997 đến nay do tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ lại
giảm thấp hơn 20%. Nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trong những năm
qua vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực cũng như nhu cầu đầu
tư cho phát triển công nghiệp. Đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước còn nhỏ,
chỉ chiếm 1,5% tổng đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn tín dụng cho đầu tư tăng
chậm. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp dành cho đầu tư cũng còn thấp, do
hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao. Vốn FDI chiếm gần 32% tổng vốn đầu
tư cho phát triển của cả nước. Trong khi đó, nhu cầu vốn để thực hiện các dự
án công nghiệp thường đòi hỏi chi phí rất lớn, ví dụ dự án nhà máy lọc dầu
Dung Quất cần 2 tỷ USD, dự án khu công nghệ cao Hoà Lạc bước đầu cũng
cần trên 800 triệu USD. Đó là chưa kể đến những dự án, những chương trình
không phải thuộc lĩnh vực công nghiệp nhưng liên quan chặt chẽ đến công
nghiệp cũng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư không nhỏ. Vấn đề nhu cầu vốn cho đầu
tư phát triển và khả năng huy động vốn của Việt Nam hiện nay đang là một bài
toán khá nan giải mà Chính phủ cần phải giải quyết trong những bước đi đầu
tiên của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đó có bài toán tăng cường thu
hút nguồn vốn FDI để phát triển nền công nghiệp non trẻ.
Kỹ thuật - công nghệ lạc hậu
Đánh giá chung trình độ công nghệ sản xuất của công nghiệp Việt Nam
( trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) so với các nước công nghiệp
phát triển là lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ và được hình thành chắp vá từ nhiều
nguồn khác nhau dẫn đến tình trạng tiêu hao năng lượng, nguyên liệu còn khá
cao, chất lượng sản phẩm thấp và mẫu mã hàng hoá đơn điệu. Tỷ lệ công nghệ
lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%, công nghệ tiên tiến, hiện đại chỉ chiếm
30-40%. Thậm chí ở nhiều nhà máy, hầu hết các trang thiết bị, máy móc, công
xưởng, dây chuyền sản xuất được thiết kế và xây dựng ở trình độ của những
năm 50. Theo đánh giá của World Bank, hệ số đổi mới công nghệ của Việt
Nam từ 1960 mới chỉ đạt 3%/ năm và khoảng 8-10% năm giai đoạn từ 1991
đến nay. Phần lớn công nghệ tiên tiến hiện đại tập trung ở các doanh nghiệp
FDI, các doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu công nghiệp . Việt Nam
hiện nay cũng như NIEs trước đây chủ yếu phải dựa vào các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động. Trình độ kỹ thuật - công nghệ yếu kém còn thể
hiện ở khả năng phục vụ nông nghiệp của các ngành công n