Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và
các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những
ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4
thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á đã thu được
những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những
thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt
nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển
quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế.
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu. góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước.
Là một bộ phận của hoạt động đầu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh
động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã
gây ảnh hưởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu tư trực tiếp, trong khi các
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì
vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là
nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại
của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức
tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: làm thế nào
để thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập?
92 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1907 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào khu công
nghiệp, khu chế xuất
Thực trạng và giải pháp
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và
các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những
ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4
thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á đã thu được
những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những
thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt
nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển
quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế.
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu... góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước.
Là một bộ phận của hoạt động đầu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh
động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã
gây ảnh hưởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu tư trực tiếp, trong khi các
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì
vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là
nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại
của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức
tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: làm thế nào
để thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập?
3
Để góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất,
sau một thời gian nghiên cứu, người viết mạnh dạn chọn đề tài:" Đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải
pháp" để viết khoá luận tốt nghiệp với hy vọng khoá luận sẽ phần nào có ích
cho những người quan tâm.
Khoá luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
một hay một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách
tổng thể trên toàn bộ các khu trong khoảng thời gian gần mười năm trở lại
đây, kể từ khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện
tại.
Trong khi nghiên cứu vấn đề, khoá luận đã sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực
tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang
nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví
dụ... cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề.
Khoá luận được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
Bản khoá luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của các chuyên gia Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất
Việt Nam, TS Vũ Chí Lộc. Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối
4
với sự chỉ bảo tận tình và những ý kiến đóng góp của các Thầy, đã giúp đỡ
người viết hoàn tất đề tài trong thời gian vừa qua.
Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tương đối phức tạp, đòi
hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên
cứu chưa nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm
khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo
và những người có quan tâm đến vấn đề này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2000.
Nguyễn Hoàng Hải.
5
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT -
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KCN, KCX
I. VÀI NÉT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1. Khái niệm:
1.1 Khu chế xuất:
a. Cơ sở lí luận:
Sự hình thành và phát triển khu chế xuất trên thế giới xuất phát từ
những thay đổi trong môi trường kinh tế- kĩ thuật của nền kinh tế toàn cầu sau
chiến tranh thế giới lần thứ II, và nhất là trong thập kỉ 60.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các
nước công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân
công tiền công thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn
trước đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa, nay đã giành
được độc lập. Mặt khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nền kĩ thuật tự
động hoá chưa đủ sức giải quyết được những khó khăn này của các nước phát
triển.
Trong khi đó, các nước đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ
thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát
triển kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do
thiếu vốn, thiếu kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lí và công nhân
lành nghề có trình độ cao nên các nước đang phát triển khó có điều kiện kiến
tạo đầy đủ ngay một lúc trên phạm vi cả nước những điều kiện và yếu tố để có
được những sản phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
Ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước
phát triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân
6
công giá rẻ và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ
sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến
gần các nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn
chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút
đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu
tố thuận lợi về pháp lý và kĩ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp
với khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và
rất có ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực
tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển.
Khu chế xuất cũng chính là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể
lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một
vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng,
xét về mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lí thuyết lợi thế so sánh, khu
chế xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các công
ty xuyên quốc gia, người nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài hiện nay trên thế giới.
b. Định nghĩa:
Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế
độ mậu dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác
nhau về khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình
kinh tế này.
- Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA):
Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các
khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự
do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực
khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế
7
xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và
Singapo vào các khu chế xuất.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO):
Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính,
có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu
trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ
thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu
về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm
viêc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt
những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh doanh nước
ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất
hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi
hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực
tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất.
- Định nghĩa củaViệt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”.
Như vậy, về cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định
nghĩa hẹp của UNIDO.
1.2 Khu công nghiệp:
a. Khu công nghiệp- sự cải biên cần thiết của khu chế xuất cổ điển.
- Hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển:
Có thể thấy rằng, khu chế xuất là một trong những công cụ hành chính
để tạo ra thể chế thương mại tự do cho các nghành công nghiệp chế biến xuất
khẩu. Sự thành công của các khu chế xuất, đặc biệt là ở các nước Châu Á như
Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaixia, đặc khu kinh tế
8
Trung Quốc... trong hơn 3 thập kỉ qua đã đóng góp tích cực vào trào lưu phổ
thông hoá công cụ thúc đẩy xuất khẩu này.
Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ khu chế xuất được thành lập nhiều
và thu được nhiều thành công lớn ở các nước Châu Á, vì đây là khu vực có
lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đường
hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động vào bậc nhất thế
giới. Các khu chế xuất châu Á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế
xuất trên toàn thế giới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lượng xuất khẩu của
một nước, nhưng tổng kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc,
Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế
giới.
Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực
sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác.Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến điều này:
+ Một là, có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên
thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu
vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các
khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài
chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh
doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư.
+ Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các
nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kĩ thuật
nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa.
Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện. Theo báo
cáo của Ngân hàng thế giới khả năng tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và
tạo mối liên kết với các cơ sở sản xuất trong nước của các khu chế xuất là rất
hạn chế, trong khi đó, đóng góp của các khu chế xuất trong tổng kim nghạch
xuất khẩu các nước cũng rất khiêm tốn, chỉ ở mức 4-5%.
9
+ Ba là, do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hoá và nguồn thu ngoại tệ về
cho đất nước, đồng thời phải bảo hộ nền sản xuất trong nước, nên các nước
đều buộc xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị
trường thế giới. Chính vì vậy nên khu chế xuất thường được bố trí là một khu
vực lãnh thổ khép kín, có hàng rào bao quanh để thuận tiện cho quản lý hải
quan.
Chính yêu cầu xuất khẩu đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất trước
những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của khu
chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng công
nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có
dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại
trước các xí nghiệp khu chế xuất. Hơn nữa, việc không cho tiêu thụ hàng hoá
của các khu chế xuất, mà chủ yếu là của các công ty nước ngoài trên thị
trường nội địa, không tạo nên môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao
giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác động tiêu cực đối với khả năng tăng
năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung.
Có thể thấy nguyên tắc "mở ngoài, đóng trong" đối với các khu chế
xuất có thể làm chậm tiến trình cải cách thương mại cần thiết trên phạm vi cả
nước, không còn thích hợp với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và nhu cầu đầu
tư phát triển trong nước giai đoạn mới. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế
trên đây của mô hình khu chế xuất cổ điển, nhiều nước đã chuyển sang phát
triển mô hình kinh tế uyển chuyển, năng động hơn, trong đó thị trường trong
nước được tính đến như một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, đó chính là khu công nghiệp tập trung.
Khu công nghiệp - mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô
hình khu chế xuất cổ điển.
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư
nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được
thị trường nội địa như một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp
10
trong khu. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài vì đối với họ thị trường nội địa còn là một thị trường mới, có dung
lượng lớn, trong khi đó thị trường thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại
sản phẩm của các doanh nghiệp khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng
loại và chất lượng.
Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự
do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc tiêu thụ hàng hoá của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp khu công
nghiệp nói riêng tại thị trường trong nước góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn
chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài tràn vào , đây cũng là yếu tố kích thích cạnh
tranh, nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng
xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới.
Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài,
khu công nghiệp có thể được các nhà đầu tư trong nước quan tâm do có môi
trường và điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất.
b. Định nghĩa:
Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt
động kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô
hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác
nhau về khu công nghiệp.
- Định nghĩa 1:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà
ở... Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính -
kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công
nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không
11
có dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui
mô khác nhau.
- Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là
"khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, kông có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ
quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế
xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa
hai.
1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX:
a. Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng
một vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế
xuất Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu
công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu
công nghiệp Sài Đồng là 97 ha...
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu
có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ
300 đến 400 người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu
công nghiệp là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu
dùng, cơ khí chế tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô
nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và phương tiện trong khu...
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ
chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngoài.
12
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được
thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh,
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu
công nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu
tư trực tiếp của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ
tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công
nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư.
b. Khác nhau:
- Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất
khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công
nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu
đãi dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng
khác nhau.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành
vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7
năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu
công nghiệp và doanh nghiệp khu chế xuất như sau:
+ Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong
hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%,
được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp
theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế
thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở
13
lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm
tiếp theo, là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh
nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn 1 năm kể từ
khi