Để đảm bảo chất lượng dạy và học ngoại
ngữ trong bối cảnh Việt Nam hội nhập toàn cầu, cần có
sự tham gia tích cực của đội ngũ các giảng viên có
trình độ, nắm vững được công nghệ ngôn ngữ trong
giảng dạy ngoại ngữ.
Trong khuôn khổ báo cáo khoa học này, tác giả
trình bày một số luận cứ về sự cần thiết của việc đào
tạo đội ngũ giảng dạy ngoại ngữ trên cơ sở công nghệ
ngôn ngữ hiện nay.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khối liệu ngôn ngữ và công nghệ trong giảng dạy ngoại ngữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 5: #ng d$ng công ngh và thit b trong ging dy và nghiên c%u v ngoi ng
722
KHỐI LIỆU NGÔN NGỮ VÀ CÔNG NGHỆ
TRONG GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ
Đào H(ng Thu
Hội ngôn ngữ học Việt Nam
Tóm t
t: Để đảm bảo chất lượng dạy và học ngoại
ngữ trong bối cảnh Việt Nam hội nhập toàn cầu, cần có
sự tham gia tích cực của đội ngũ các giảng viên có
trình độ, nắm vững được công nghệ ngôn ngữ trong
giảng dạy ngoại ngữ.
Trong khuôn khổ báo cáo khoa học này, tác giả
trình bày một số luận cứ về sự cần thiết của việc đào
tạo đội ngũ giảng dạy ngoại ngữ trên cơ sở công nghệ
ngôn ngữ hiện nay.
Abstract: To ensure the quality of teaching and
learning foreign languages in the context of Vietnam's
global integration, there should be active participation
of highly qualified teachers having a through grasp of
anguage technology in teaching language.
Within the framework of this paper, the author
presents some arguments about the need for training
of foreign language teaching on the basis of current
language technology.
Như ta đã biết, quá trình hội nhập quốc tế và
phát triển của một quốc gia luôn đòi hỏi việc sử
dụng công nghệ tiên tiến trong hầu hết các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội. Do vậy, dạy và
học ngoại ngữ không là ngoại lệ.
Thực tế đã cho thấy, trong một thời gian dài,
việc dạy và học ngoại ngữ trong trường học Việt
Nam không đạt hiệu quả như mong muốn. Các
phương tiện thông tin đại chúng đã nhiều lần đề
cập đến vấn đề này khi so sánh khả năng nói và
tiếp nhận bài giảng bằng tiếng nước ngoài của du
học sinh Việt Nam với du học sinh các nước đang
theo học tại các trường đại học trên thế giới. Theo
quan sát của tác giả, phần lớn người dạy và người
học ngoại ngữ đều cảm nhận được điều này. Vấn
đề là cần sử dụng công nghệ dạy và học ngoại ngữ
phù hợp với người Việt Nam trong quá trình đào
tạo ngành nghề.
Nghiên cứu cho thấy rằng cần đặc biệt quan
tâm đến 2 loại hình công nghệ khi tiến hành giảng
dạy ngoại ngữ:
1) công nghệ giao tiếp: bao gồm khả năng giao
tiếp và phương pháp giao tiếp.
2) công nghệ ngôn ngữ: bao gồm khả năng xử
lý ngôn ngữ và phương pháp xử lý ngôn ngữ.
Xuất phát từ thực tế giáo dục xã hội còn mang
dấu ấn phong kiến, có thể thấy rằng phần lớn sinh
viên đại học chưa được trang bị kiến thức về kỹ
năng giao tiếp trong hoạt động ngôn ngữ, cũng
như không linh hoạt trong việc tiếp cận các nền
văn hóa, văn minh thế giới. Vấn đề là yếu tố quan
trọng này dường như đã không được chú ý trong
quá trình giảng dạy ngoại ngữ nhiều năm qua.
Mục tiêu của bài báo nằm ở vấn đề thứ hai:
công nghệ ngôn ngữ.
Một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam nhìn nhận
ngoại ngữ không từ góc độ ngôn ngữ như nó phải
có. Trước hết, tác giả bài báo thấy cần nêu rõ quan
điểm là ngoại ngữ chính là ngôn ngữ nước ngoài.
Vì vậy, bất kỳ ngoại ngữ nào cũng đều mang đầy
đủ các đặc điểm của một ngôn ngữ được coi là
chính thức. Công nghệ ngôn ngữ được đề cập
trong khuôn khổ bài báo liên quan chặt chẽ đến
ngôn ngữ học khối liệu, một chuyên ngành nằm
giữa ngôn ngữ học và công nghệ thông tin.
Hiện nay, tại nhiều nước trên thế giới, thuật
ngữ “khối liệu” (corpus) và các sản phẩm giáo dục
trên cơ sở khối liệu ngôn ngữ đã trở nên quen
thuộc đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, giảng
viên và người học ngoại ngữ, các dịch giả.
Khái niệm ngôn ngữ học khối liệu xuất hiện ở
Việt Nam vào đầu năm 2007. Vì vậy, sử dụng
khối liệu trong nghiên cứu ngôn ngữ, dịch thuật,
dạy và học ngoại ngữ còn đang là vấn đề mới mẻ,
mặc dù rất cần thiết, về mặt lí thuyết và thực hành.
Khối liệu ngôn ngữ và phần mềm khối liệu trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
723
máy tính đang có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ,
đóng vai trò làm nguồn ngữ liệu và tài liệu sư
phạm rất phong phú, gọn nhẹ trong dạy/học ngoại
ngữ. Tuy nhiên, trong môi trường nghiên cứu và
giảng dạy ngoại ngữ hiện nay vẫn chưa cập nhật
nhiều thông tin về khối liệu ngôn ngữ và việc sử
dụng khối liệu vào việc giảng dạy.
Các sản phẩm giáo dục trên cơ sở khối liệu
ngôn ngữ như từ điển điện tử, đối chiếu ngôn ngữ,
các bài tập luyện kỹ năng ngôn ngữ và v.v. ảnh
hưởng đáng kể đến quá trình giảng dạy và nghiên
cứu ngôn ngữ (bản ngữ và ngoại ngữ). Vấn đề là
trước khi sử dụng khối liệu ngôn ngữ, người học
cần được giới thiệu về khái niệm khối liệu và
ngôn ngữ học khối liệu, ví dụ, thế nào là khối
liệu? các khối liệu liên kết với dạy và học ngoại
ngữ như thế nào? có thể sử dụng khối liệu ra sao?
và v.v..
Công nghệ ngôn ngữ dành cho giảng dạy ngoại
ngữ có thể xét từ góc độ khả năng xử lý ngôn ngữ
và phương pháp xử lý ngôn ngữ. Đơn giản nhất
trong xử lý ngôn ngữ là sử dụng công nghệ ngôn
ngữ với công cụ là khối liệu ngôn ngữ chuyên dụng.
I. Sử dụng khối liệu ngôn ngữ chuyên dụng
trong giảng dạy và nghiên cứu
Thực tế đã chứng minh rằng khối liệu ngôn
ngữ đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực
cuộc sống xã hội của một quốc gia như kinh tế,
giáo dục, chuyển giao công nghệ v.v.
Trong lĩnh vực giảng dạy, việc sử dụng khối
liệu ngôn ngữ làm tăng rõ rệt hiệu quả quá trình
dạy và học, cụ thể là làm tăng tính tích cực tham
gia vào bài học trên lớp, thúc đẩy tính sáng tạo
của người học trong quá trình học tập và nghiên
cứu. Sử dụng khối liệu ngôn ngữ cho phép người
dạy đánh giá khả năng của người học chính xác
hơn là đánh giá người học qua nhận định cảm tính
tổng thể, bởi vì việc sử dụng khối liệu cho phép
người dạy kiểm tra một cách chi tiết các phần mục
cần thiết hoặc chú giải cụ thể các lỗi riêng biệt của
người học trong quá trình giảng dạy.
Trong dạy và học ngoại ngữ, việc sử dụng khối
liệu giúp người dạy có thêm nhiều thời gian để
nâng cao chất lượng giảng dạy, giúp người học có
thể tập phát âm theo chuẩn ngôn ngữ ngay từ
những bài học đầu tiên và khi không có giảng viên
bản ngữ. Khối liệu ngôn ngữ được sử dụng nhiều
trong dạy viết các thể loại văn bản bằng ngoại ngữ
được học đã làm giảm bớt rất nhiều công sức và
thời gian của người dạy, đồng thời giúp người học
tiếp thu bài giảng một cách dễ dàng hơn.
Trong nghiên cứu ngôn ngữ, khối liệu giúp làm
giảm đáng kể thời gian và sức lực nghiên cứu,
đồng thời, đảm bảo độ chính xác của các nghiên
cứu có nội dung lớn và phức tạp.
Các khối liệu ngôn ngữ cung cấp ngữ liệu một
cách chính xác cho việc nghiên cứu và giảng dạy
ngoại ngữ, cho việc biên soạn các tài liệu ngữ
pháp và từ điển. Các phân tích ngôn ngữ trong
khối liệu giúp người dạy có thể tìm được những
tình huống ngôn ngữ khác nhau phù hợp với trình
độ của người học. Nghiên cứu khối liệu ngôn ngữ
dành cho người học ngoại ngữ cung cấp nhiều
thông tin hữu ích về các quá trình học ngoại ngữ
nói chung. Các khối liệu ngôn ngữ chuyên dụng
cho phép kiểm tra ngôn ngữ biểu đạt của người
học, qua đó, giúp người dạy có thể sửa lỗi cho
người học một cách nhanh chóng và chính xác nhất.
Nắm vững phương pháp sử dụng khối liệu
ngôn ngữ cho phép xử lý hiệu quả ngữ liệu trong
khối liệu và cung cấp các chi tiết bổ sung về tần số
đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt trong các ngữ cảnh
đặc thù.
Thông thường, khối liệu ngôn ngữ được sử
dụng phổ biến không chỉ trong giảng dạy ngoại
ngữ nói chung, mà còn cả trong các lĩnh vực khoa
học chuyên sâu như tiếng Anh chuyên ngành
(ESP), đặc biệt là tiếng Anh hàn lâm chuyên
ngành (EAP). Ở đây, khối liệu được sử dụng chủ
yếu trong dạy và học viết các thể loại văn bản
bằng tiếng Anh thuộc các chuyên ngành khoa học
và công nghệ khác nhau như chế tạo máy, công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, môi trường v.v.
Sử dụng khối liệu ngôn ngữ làm tăng tính độc
lập của người học trong học tập và nghiên cứu.
Khi sử dụng khối liệu ngôn ngữ, người học có thể
Tiu ban 5: #ng d$ng công ngh và thit b trong ging dy và nghiên c%u v ngoi ng
724
xác định một cách dễ dàng nhiệm vụ trọng tâm và
tìm ra được các phương pháp học tập và nghiên
cứu riêng cho bản thân mà người dạy có thể không
bao quát hết được. Điều này không có nghĩa là vai
trò của người dạy bị giảm, mà ngược lại, được
tăng lên và đa dạng hóa một cách rõ rệt. Người
dạy lúc này đóng vai trò của người hướng dẫn, cố
vấn cho người học tiếp nhận kiến thức mới hoặc là
người đồng nghiên cứu với người học trong quá
trình nghiên cứu của người học.
II. Hướng sử dụng khối liệu ngôn ngữ
chuyên dụng trong nghiên cứu và giảng dạy
Các khả năng nêu trên của việc sử dụng khối
liệu ngôn ngữ không có nghĩa là để đảm bảo chất
lượng nghiên cứu và giảng dạy theo nhu cầu xã
hội hiện nay thì chỉ cần sử dụng khối liệu ngôn
ngữ và phần mềm của nó là đủ. Vấn đề là ở chỗ
khi sử dụng khối liệu ngôn ngữ, người nghiên cứu,
người dạy và người học cần phải điều chỉnh
những thay đổi về mặt định tính và định lượng
kiến thức, kĩ năng và phương pháp sao cho phù
hợp với yêu cầu của đề tài, dự án, của chương
trình từng khóa học cụ thể để đạt được kết quả
như mong muốn.
Như vậy, ngoài việc đầu tư máy tính và thiết bị
cho khối liệu ngôn ngữ, cần có sự đầu tư cơ bản
về kĩ năng xây dựng và sử dụng chúng. Trước khi
thực hiện nghiên cứu hoặc giảng dạy ngôn ngữ,
cần giới thiệu cách sử dụng khối liệu nói chung
trên máy tính như làm quen với việc khai thác ngữ
liệu trong khối liệu và với các kĩ năng thực hành
nói, nghe, đọc, viết trên cơ sở khối liệu. Trong các
điều kiện cho phép, có thể nâng cao kiến thức về
khối liệu cho người học bằng cách giới thiệu các
phương pháp nghiên cứu và xây dựng khối liệu
ngôn ngữ.
Do khối liệu ngôn ngữ được sử dụng ngày càng
rộng rãi, người sử dụng không chỉ quan sát hoạt
động của khối liệu, mà còn cần tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạt động của khối liệu. Khối liệu
ngôn ngữ cũng là nguồn cung cấp thông tin có giá
trị về tần số đặc trưng ngôn ngữ trong các ngữ
cảnh khác nhau, vì vậy đối với việc sử dụng khối
liệu trong học ngoại ngữ, người học cần nhận thức
và theo dõi được những thay đổi về tần số sử dụng
ngôn ngữ trong ngữ cảnh để sử dụng được các cấu
trúc câu phù hợp khi thực hiện các bài tập thực
hành và người dạy cần có các thông tin cập nhật
về khối liệu sử dụng, cần luôn ở vị trí là người
hướng dẫn, tư vấn cho người học trong quá trình
dạy và học. Điều này đòi hỏi người dạy phải có
nhận thức về khối liệu và lượng kiến thức vượt
tầm các thông tin sẵn có trong tài liệu giảng dạy.
Một số ví dụ về khối liệu ngôn ngữ được xây dựng và sử dụng trong nghiên cứu và giảng dạy:
Hình 1: Khảo sát tần số sử dụng từ trong một hoặc nhiều bài học
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
725
Hình 2: Lựa chọn từ mới và các ví dụ, có đối chiếu với tiếng mẹ đẻ
Hình 3: Mở rộng thành phần câu được phân tích
Tiu ban 5: #ng d$ng công ngh và thit b trong ging dy và nghiên c%u v ngoi ng
726
Hình 4: Mở rộng thành phần câu được phân tích (tiếp theo)
Hình 5: Mở toàn bộ văn bản, có đối chiếu với tiếng mẹ đẻ
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
727
Hình 6: Đối chiếu các thành phần câu với tiếng mẹ đẻ
III. Kết luận
Việc sử dụng khối liệu ngôn ngữ cho thấy mô
tả ngôn ngữ của quá trình nghiên cứu và giảng dạy
trên cơ sở khối liệu được dịch chuyển một cách
tích cực từ các nguyên tắc chung và loại trừ sang
các cấu trúc mềm dẻo và ngữ cảnh - đặc trưng. Sử
dụng khối liệu ngôn ngữ giúp người dạy tiết kiệm
công sức và thời gian trong giảng dạy và nghiên
cứu khoa học, giúp người học có thể tiếp nhận
ngôn ngữ được học một cách nhanh chóng và sáng
tạo, giúp tăng cường sự hợp tác thày – trò trong
quá trình dạy/học và nghiên cứu. Sử dụng khối
liệu ngôn ngữ chuyên dụng trong nghiên cứu và
giảng dạy ngôn ngữ nói chung, ngoại ngữ nói
riêng, giúp nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn
vai trò của người dạy và người học khi nhấn mạnh
vai trò cố vấn, hướng dẫn của người dạy và vai trò
tự chủ, độc lập của người học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aston, G. (1996). The British National Corpus as a
language learner resource. Paper presented at the
second conference on Teaching and Language Corpora,
Lancaster University, UK, 9-12 August 1996.
2. Aston G., Bernardini, S. & Stewart, D. (Eds.)
(2004). Corpora and language learners.
Amsterdam/Philadelphia: Benjamins.
3. Atwell, E., Gent, P., Medori, J. & Souter, C. (2003).
Detecting student copying in a corpus of science
laboratory reports. In D. Archer, P. Rayson, A. Wilson
& T. McEnery (Eds.), Proceedings of CL2003:
International Conference on Corpus Linguistics.
UCREL technical paper number 16 (pp.48-53).
UCREL, Lancaster University.
4. Balow Michael. ParaConc and Parallel Corpora in
Contrastive and Translation Studies. Houston TX, 2008.
5. Coxhead, A. (2002). The academic word list: A
corpus-based word list for academic purposes. In B.
Kettemann & G. Marko (Eds.), Teaching and learning
by doing corpus analysis (pp. 73-89). Amsterdam: Rodopi.
6. Dudley-Evans, T. & St John, M.J. (1998).
Developments in English for Specific Purposes: A
multi disciplinary approach. Cambridge: Cambridge
University Press.
7. Nesselhauf, N. (2005). Collocations in a learner
corpus. Amsterdam: John Benjamins.
8. McEnery T., Wilson A. (1999). Corpus Linguistics.
– Edinburgh: Edinburgh University Press.
9. Леонтьева Н.Н. (2005). Неполнота и смысловое
сжатие в текстовом корпусе // Сборник: Труды
международной конференции «Труды международной
конференции «MegaLing'2005. Прикладная
лингвистика в поиске новых путей» – 2005.
10. Марчук Ю.Н. (2002). Корпус текстов и
сверхбольшие базы лингвистических данных //
Сборник: Труды международной конференции
«Корпусная лингвистика – 2002». - Издательство
Санкт-Петербургского университета, 2002.
11. Беляева Л.Н. (2003). Теория и практика
перевода. С-Петербург, 2003.
12. Дао Хонг Тху (2006). Корпус параллельных
текстов в аспекте корпусной лингвистики //
Проблемы современной филологии и
лингводидактики, сб. научных трудов, СПб,
изд.РГПУ им.А.И.Герцена, с.23-28.
13. Лингвистический энциклопедический словарь
(1990). Главн. ред. В.Н. Ярцева. М. - 685 с.
14. Hong Thu Dao (2011). Linguistique de Corpus
dans I’économie mondiale // Les apports des sciences
humaines et sociales au développement socio-
économique. Actes du colloque international, Hanoi –
2011, pp.153-155.
15. Đào Hồng Thu (2009). Ngôn ngữ học khối liệu và
những vấn đề liên quan (Quyển 1). Nxb. Khoa học xã hội.