TÓM TẮT
Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học là một yêu cầu cần
được thực hiện ưu tiên. Nó mang ý nghĩa về lợi ích nội sinh; là nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, nhà trường quản lý hiệu quả hơn. Về lợi ích ngoại sinh; kiểm định chương
trình đào tạo là mang đến sự an tâm, tin cậy cho lãnh đạo ngành giáo dục, người học, phụ
huynh và xã hội. Thời kỳ hội nhập các trường đại học phải kiểm định chất lượng chương
trình đào tạo. Vì đó là sự tồn tại và phát triển thương hiệu của nhà trường. Hiện nay có
các chuẩn kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam (VNU -
CEA), Kiểm định giáo dục Đông Nam Á (AUN), Kiểm định giáo dục của Hoa kỳ (ABET)
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trường đại học trong thời kỳ hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014
56
KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
TRƯƠNG MINH TRÍ(*)
TÓM TẮT
Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học là một yêu cầu cần
được thực hiện ưu tiên. Nó mang ý nghĩa về lợi ích nội sinh; là nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, nhà trường quản lý hiệu quả hơn. Về lợi ích ngoại sinh; kiểm định chương
trình đào tạo là mang đến sự an tâm, tin cậy cho lãnh đạo ngành giáo dục, người học, phụ
huynh và xã hội. Thời kỳ hội nhập các trường đại học phải kiểm định chất lượng chương
trình đào tạo. Vì đó là sự tồn tại và phát triển thương hiệu của nhà trường. Hiện nay có
các chuẩn kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam (VNU -
CEA), Kiểm định giáo dục Đông Nam Á (AUN), Kiểm định giáo dục của Hoa kỳ (ABET)
Từ khoá: kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, trường đại học, thời kỳ
hội nhập
ABSTRACT
Quality inspection training program of the university is a requirement to be made a
priority. It brings significant benefits endogenous; improving the quality of education and
training, school management more efficient. Regarding external benefits; inspection
program is to bring peace of mind, confidence for educational leaders, students, parents
and society. Integration period universities have quality control programs. Because it is
the survival and development of the brand. There are currently testing standards: (VNU -
CEA) VNU Vietnam, AUN (Calibration Southeast Asia), ABET (Accreditation standards of
the United States)...
Keywords: quality inspection training program, university, integration period
1. ĐẶT VẤN ĐỀ(*)
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) và thực hiện Hiệp định
chung về thương mại dịch vụ (GATS), giáo
dục là một trong các dịch vụ của hội nhập.
Đại học Việt Nam đã từng bước phát triển
rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình
trường và hình thức đào tạo, huy động
được nhiều nguồn lực xã hội cho phát triển
giáo dục đại học, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu học tập của nhân dân, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng
(*)ThS, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trước những thách thức và
yêu cầu ngày càng cao trong quá trình hội
nhập và phát triển, sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ, yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hệ
thống giáo dục đại học Việt Nam cần được
tiếp tục đổi mới, trong đó cần đặc biệt quan
tâm đến kiểm định chất lượng chương trình
đào tạo, các điều kiện nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo. Nhà nước cũng đã khuyến
khích các trường đại học và các chương
trình đào tạo đăng ký kiểm định hoặc đánh
giá bởi các tổ chức kiểm định quốc tế. [12]
57
1.1. Khái niệm chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo thể hiện trình độ
đào tạo; đối tượng đào tạo, điều kiện nhập
học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào
tạo, chuẩn kiến thức, kỹ năng của người
học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý
thuyết, thực hành, thực tập; kế hoạch đào
tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và
hình thức đào tạo; cách thức đánh giá kết
quả học tập; các điều kiện thực hiện
chương trình. Chương trình đào tạo được
cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối
kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục
chuyên nghiệp.
- Kiến thức giáo dục đại cương: Là kiến
thức của những môn khoa học cơ bản vừa có
tính chất đại cương của bậc đại học vừa có
tính chất nền tảng cho việc đào tạo chuyên
ngành. Phần kiến thức này chủ yếu được
giảng dạy ở ba học kỳ đầu của khóa học.
- Kiến thức giáo dục chuyên
nghiệp: Là kiến thức của những môn khoa
học chuyên ngành, trang bị cho sinh viên
những kiến thức, kỹ năng của một ngành
đào tạo mà họ đã chọn để đạt trình độ kỹ sư
hoặc cử nhân, tùy theo ngành. Phần kiến
thức này được giảng dạy trên cơ sở nền tảng
của phần kiến thức giáo dục đại cương.
Đề cương chi tiết của từng học phần
phải thể hiện rõ số lượng tín chỉ, điều kiện
tiên quyết (nếu có), học trước, học song
hành, nội dung lý thuyết và thực hành, cách
thức đánh giá học phần, giáo trình, tài liệu
tham khảo và điều kiện thí nghiệm, thực
hành, thực tập phục vụ học phần. Chương
trình đào tạo của các trường đại học áp
dụng cho các khóa 2012 trở về sau có tổng
số tín chỉ là khoảng 150. [7]
1.2. Kiểm định chất lượng chương
trình đào tạo
Kiểm định là một quá trình đánh giá
toàn diện từ cung cách quản lý, cơ sở vật
chất, nội dung giảng dạy đến chất lượng
sinh viên tốt nghiệp. Kiểm định trước hết
phải là một quá trình tự nguyện của một
trường đại học. Kiểm định quá trình trường
tự nhìn lại mình để nhận ra mặt mạnh và
mặt yếu. Qua đó đưa ra một lộ trình phát
triển cho tương lai. Đó là một quá trình tự
thân vận động theo hướng tích cực nhất, nó
không phải là cứu cánh. Kiểm định còn là
“sự tự chịu trách nhiệm” của nhà trường
đối với những người có lợi ích và của quá
trình giáo dục, đào tạo, đến sự hiện hữu của
trường như nhà đầu tư, xã hội. Làm được
như vậy trường đã tăng cường được tính
minh bạch của nhà trường đối với xã hội.
1.2.1. Trung tâm Kiểm định chất lượng
giáo dục
+ Trung tâm Kiểm định chất lượng
giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội)
(VNU-CEA)
Ngày 5/9/2013, Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ra Quyết định số 3568/QĐ–
BGDĐT thành lập Trung tâm Kiểm định
chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Hà
Nội. Tên giao dịch bằng tiếng anh: VNU
Center for Education Accreditation (VNU-
CEA).
+ Trung tâm Kiểm định chất lượng
giáo dục – Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh (VNU-HCM)
Quyết định số 5570/QĐ–BGDĐT,
ngày 22/11/2013 thành lập Trung tâm
Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tên
giao dịch bằng tiếng anh: VNU–HCM
center for Education Accreditation (VNU-
HCM CEA).
Nhiệm vụ của Trung tâm Kiểm định
chất lượng giáo dục là đào tạo kiểm định
viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học
và trung cấp chuyên nghiệp. Đây là tổ chức
58
kiểm định đầu tiên của Việt Nam được
quyền đánh giá và công nhận cho các
trường đại học và các chương trình đào
tạo ở trong nước. Các tổ chức này được
quyền đưa ra các quyết định công nhân hay
không công nhận các trường đại học và các
chương trình đào tạo đáp ứng các tiêu
chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục mà
không bị can thiệp bởi bên thứ ba. [9]
Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo
dục là tổ chức thực hiện các dịch vụ công
về kiểm định chất lượng giáo dục, tư vấn,
giám sát việc đảm bảo và nâng cao chất
lượng giáo dục theo các chuẩn mực quốc
gia, khu vực và quốc tế. Kiểm định chất
lượng giáo dục theo các tiêu chuẫn của Bộ
tiêu chuẩn kiểm định chương trình đào tạo
do Trung tâm kiểm định chất lượng giáo
dục đảm nhận, việc công nhận nhà trường
đạt chuẩn kiểm định của quốc gia và bằng
cấp có giá trị ở trong nước.
Các tổ chức kiểm định ngoài công lập
có thể được thành lập tại Việt Nam sau
năm 2015. Hệ thống đảm bảo chất lượng
giáo dục đại học ở Việt Nam đã tạo được
niềm tin trong các cơ sở giáo dục đại học.
Sự tin tưởng này hỗ trợ các cơ sở giáo dục
đại học cùng nhau hợp tác trong việc
chuyển đổi tín chỉ, trao đổi sinh viên và
công nhận bằng cấp lẫn nhau. [8]
1.2.2. Kiểm định chất lượng chương
trình đào tạo theo chuẩn kiểm định chất
lượng của Mạng lưới các trường đại học
Đông Nam Á (AUN)
Với mục đích phát triển nguồn nhân
lực thông qua giáo dục đại học trong khu
vực ASEAN, tháng 11 năm 1995, Mạng
lưới các trường đại học khu vực Đông Nam
Á AUN-QA (ASEAN University Network
- Quality Assurance) đã được thành lập.
Tính đến nay (tháng 9/2014), đã có 27
trường đại học đến từ 10 quốc gia (trong đó
có Việt Nam) trong khu vực trở thành
thành viên của tổ chức này [4]. Nhằm đẩy
mạnh công tác đảm bảo chất lượng bên
trong các trường đại học trong khu vực,
AUN đã đưa ra sáng kiến đánh giá chất
lượng giáo dục đại học theo những tiêu
chuẩn đảm bảo chất lượng chung của khu
vực ASEAN. Đây cũng là cách mà mạng
lưới các trường đại học ASEAN nâng cao
sự tin tưởng lẫn nhau về chất lượng đào tạo
giữa các trường trong khu vực cũng như
với các trường đại học đối tác trên thế giới,
từng bước góp phần thúc đẩy sự công nhận
thành quả học tập và phát triển hợp tác
giữa các trường đại học trong khu vực
Đông Nam Á. Theo TS. Nguyễn Ngọc
Thanh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học
Kinh tế - Đại học quốc gia Hà nội, việc lựa
chọn kiểm định theo chuẩn AUN nhằm
giúp các trường biết chương trình đào tạo
đã đạt đến cấp độ nào trên thang đánh giá
của khu vực. Qua đó, phát hiện chương
trình còn tồn tại những gì cần khắc phục
nhằm đảm bảo chương trình đạt chất lượng
ngang tầm các chương trình cùng lĩnh vực
trong khu vực ASEAN. [2]
Trong Bộ tiêu chuẩn của AUN có 18
tiêu chuẩn với 74 tiêu chí. Mỗi tiêu chí được
đánh giá theo 7 mức là: 1= không có gì
(không có tài liệu, kế hoạch, minh chứng );
2 = chủ đề này của hệ thống đảm bảo chất
lượng bên trong mới chỉ nằm trong kế
hoạch; 3 = có tài liệu, nhưng không có minh
chứng rõ ràng; 4 = có tài liệu và minh
chứng; 5 = có minh chứng rõ ràng về hiệu
quả trong lĩnh vực xem xét; 6 = chất lượng
tốt; 7 = xuất sắc. Mỗi tiêu chí trong bộ tiêu
chuẩn đều có trọng số như nhau, điểm đánh
giá của toàn bộ chương trình là điểm trung
bình cộng của cả 74 tiêu chí. 4.0 điểm, là
ngưỡng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất
lượng của AUN, trong đó điểm tối đa là 7
59
điểm. Các trường kiểm định đạt theo chuẩn
kiểm định chất lượng của Mạng lưới các
trường đại học Đông Nam Á, việc công
nhận và bằng cấp có giá trị ở các nước trong
khu vực Đông Nam Á. Như vậy, những sinh
viên tốt nghiệp từ các trường đại học đạt
chuẩn này sẽ dễ dàng hội nhập trong khu
vực ASEAN. [3]
1.2.3. Kiểm định chất lượng giáo dục
theo chuẩn kiểm định ABET
ABET (Accreditation Board on
Engineering and Technology - Hội đồng
Kiểm định về Kỹ thuật và Công nghệ);
được thành lập từ năm 1932, là một tổ chức
phi lợi nhuận, phi chính phủ kiểm định
chương trình đại học và trường đại học các
ngành trong các lĩnh vực kỹ thuật
(engineering), công nghệ (technology), điện
toán (computing) và khoa học ứng dụng
(applied science). ABET là chuẩn kiểm định
được công nhận rộng rãi tại Hoa Kỳ. Trong
nhiều trường hợp, các trường đại học phải
có các chương trình kỹ thuật được công
nhận bởi ABET thì mới đủ điều kiện để vận
hành. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan chuyên
môn đòi hỏi các kỹ sư phải tốt nghiệp từ các
chương trình được công nhận ABET mới có
thể hành nghề kỹ thuật. ABET kiểm định
hơn 3.100 chương trình tại hơn 670 trường
cao đẳng và đại học tại 23 quốc gia. ABET
cung cấp chuyên ngành, kiểm định chất
lượng chương trình và đánh giá một chương
trình cá nhân của nghiên cứu, chứ không
phải đánh giá một tổ chức như một toàn thể.
ABET công nhận, đó là tự nguyện và
đạt được thông qua một quá trình thẩm
định, cung cấp sự bảo đảm rằng một
chương trình đại học hoặc đại học đáp ứng
các tiêu chuẩn chất lượng được thành lập
bởi các ngành nghề mà các chương trình
chuẩn bị cho sinh viên của mình. Từ năm
2007, tổ chức này chính thức cấp chứng chỉ
kiểm định cho các chương trình đào tạo
của các trường đại học ngoài nước Mỹ.
Bộ tiêu chuẩn ABET bao gồm 9 tiêu
chuẩn: 1/ Sinh viên (Student), 2/ Mục tiêu
đào tạo (Program Educational Objectives),
3/ Khả năng sinh viên (Student Outcomes),
4/ Liên tục cải thiện (Continuous
improvement), 5/ Chương trình đào tạo
(Curriculum), 6/ Ban giảng huấn (Faculty),
7/ Cơ sở vật chất (Facilities), 8/ Hỗ trợ của
trường đại học (Institutional Support), 9/
Tiêu chuẩn riêng của từng chương trình
(Program criteria). Tiêu chuẩn “Sinh viên”
là tiêu chuẩn được xem xét đầu tiên; thể
hiện quan điểm của ABET, xem người học
là trung tâm. Tiêu chuẩn này đòi hỏi phải
theo dõi sự phát triển của sinh viên nhằm
giúp họ đạt được các kết quả mong muốn,
xem xét các yêu cầu về việc nhận sinh viên
vào học, việc hỗ trợ người học qua hệ
thống cố vấn, qua cách vận hành chương
trình, “Mục tiêu đào tạo” đòi hỏi phù
hợp với sứ mạng của trường đại học và dựa
trên đóng góp của nhiều thành phần liên
quan đến người học: giới doanh nghiệp,
cựu sinh viên, giảng viên, Điểm nổi bật
trong các tiêu chuẩn ABET là tiêu chuẩn
“Khả năng sinh viên” (trước đây là
“Chuẩn đầu ra”- Program Outcomes) với
các yêu cầu cụ thể (gồm ít nhất 11 yêu cầu)
thể hiện các kiến thức, kỹ năng và thái độ
của người học đạt được khi tốt nghiệp.
Tiêu chuẩn này thể hiện quan điểm đánh
giá của tổ chức ABET, là đánh giá sự thành
công của một chương trình là dựa trên kết
quả đạt được của người học chứ không tập
trung vào những gì mà các giảng viên thực
hiện trên lớp. Một tiêu chuẩn quan trọng
khác là tiêu chuẩn “Liên tục phát triển”.
Tiêu chuẩn này đòi hỏi một chương trình
đào tạo cần phải có một hệ thống đánh giá
60
chất lượng người học để từ đó liên tục cải
thiện nhằm nâng cao chất lượng đạt được.
Tiêu chuẩn “Chương trình đào tạo” bao
gồm một số yêu cầu tối thiểu về thời lượng
của các khối kiến thức. Yêu cầu quan trọng
nhất của tiêu chuẩn này là phải đảm bảo
người học có thể đạt được các yêu cầu
trong “Khả năng sinh viên” Các tiêu chuẩn
khác nhằm đảm bảo khả năng vận hành
chương trình đào tạo: có đủ giảng viên
trong Ban giảng huấn và các giảng viên có
thời lượng làm việc hợp lý cho công tác
đào tạo; có đủ tiềm lực tài chính và cơ sở
vật chất phục vụ cho việc vận hành chương
trình đào tạo. Các trường đại học kiểm
định đạt chất lượng giáo dục theo chuẩn
kiểm định ABET, việc công nhận và bằng
cấp có giá trị quốc tế. Những sinh viên tốt
nghiệp từ các trường đại học đạt chuẩn
ABET sẽ dễ dàng hội nhập quốc tế. [5]
1.3. Trường đại học trong thời kỳ
hội nhập
Trong điều kiện đất nước còn nhiều
khó khăn, nguồn lực còn hạn hẹp, được sự
quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội, với những nỗ lực của đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý, giáo dục và đào
tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc: thực hiện giáo
dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; góp phần
giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính
trị, lý tưởng cách mạng cho các thế hệ con
người Việt Nam; giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất
lượng được tăng cường; chất lượng và hiệu
quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào
tạo có tiến bộ; hợp tác quốc tế được mở
rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng
khá nhanh. Những thành tựu trên và yêu
cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới
cho phép và đòi hỏi giáo dục Việt Nam
chuyển từ phát triển thực tế chủ yếu theo
mục tiêu số lượng sang mục tiêu coi trọng
cả chất lượng, hiệu quả và số lượng theo
nhu cầu xã hội. [13]
Trong khoảng hai thập niên qua, nền
giáo dục đại học trên thế giới đã có những
chuyển hướng sâu rộng đáng để tham khảo,
nhất là trong tình hình xã hội đang đề cập
ngày càng nhiều đến nhu cầu cải cách cấp
bách giáo dục đại học của nước ta. Một số
chuyển hướng đáng kể như sau:
1.3.1. Giáo dục hóa đại học: Cùng với
sự phát triển nhanh về mọi mặt của xã
hội, giáo dục đại học đã chuyển mạnh từ
nền giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại
chúng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
đời sống văn hoá và nguồn nhân lực trình
độ cao. Số trường đại học mới thành lập
gia tăng ở các tỉnh, cùng với sự đa dạng
hoá các loại hình đào tạo (tại chức, đào tạo
từ xa, đào tạo liên thông, đào tạo theo dự
án,).
1.3.2. Thay đổi mục tiêu đào tạo theo
yêu cầu phát triển xã hội: Trong thời đại
thông tin, khối lượng kiến thức của nhân
loại gia tăng nhanh chóng. Vấn đề quan
trọng hơn không phải là truyền đạt cho sinh
viên bao nhiêu kiến thức, mà là trang bị
cho sinh viên khả năng tự thu thập kiến
thức, tự thân phát triển và năng lực giải
quyết vấn đề một cách sáng tạo. Vì vậy,
người ta nói: dạy học đại học là dạy cách
học cho sinh viên. Sự thành đạt của con
người ngày nay chủ yếu dựa vào những
kiến thức tự học chứ không phải là số kiến
thức do thầy truyền đạt ở nhà trường. [6]
1.3.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy
của người thầy và cách học của sinh viên:
Ngày nay, vai trò chủ yếu của người thầy
là hướng dẫn việc học tập (facilitator of
learning) của sinh viên, còn sinh viên tiếp
61
thu kiến thức chủ yếu thông qua tự học và
thảo luận nhóm, dưới sự hướng dẫn của
thầy, theo phương châm lấy sinh viên làm
trung tâm (student centered learning). Để
thực hiện được điều này, các trường đã áp
dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực:
ứng dụng đa phương tiện trong dạy học và
phát huy tính năng động, sáng tạo của sinh
viên như nghiên cứu tình huống (case
study), học trên cơ sở giải quyết vấn đề
(problem based learning), học qua khám
phá (learning by discovery), Internet và
các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã được
tích cực huy động để hỗ trợ cho việc học
tập của sinh viên. Sinh viên ngày càng
tham gia nhiều hơn và có hiệu quả hơn vào
các công trình nghiên cứu khoa học để rèn
luyện và trải nghiệm năng lực sáng tạo.
1.3.4. Xu hướng giảm sự bao cấp của
nhà nước về tài chính: Sự phát triển mạnh
quy mô đào tạo cùng với sự gia tăng nhanh
chi phí đào tạo đại học đã trở thành gánh
nặng tài chính đối với các chính phủ. Nếu
trước kia các trường đại học công chủ yếu
tồn tại nhờ vào nguồn tài chính công (ở
một số nước, ngay cả các trường tư cũng
được nhà nước tài trợ một phần), thì nay
một số nước như Thái Lan và cả nước giàu
như Nhật Bản cũng đang thực hiện chính
sách giảm dần mức trợ cấp của nhà nước
cho các trường đại học công và cho phép
các trường tự chủ về tài chính. Điều này
bước đầu có gây một số khó khăn cho các
trường, nhưng ngược lại cũng thúc đẩy các
trường chi tiêu hợp lý hơn, nâng cao tính
năng động và hiệu quả hoạt động trong các
lĩnh vực: hợp đồng nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ, tìm nguồn tài trợ,
sản xuất và dịch vụ, Mặt khác, học phí là
nguồn tài chính quan trọng nhất của
trường, vì vậy các trường cũng phải nâng
cao chất lượng đào tạo để cạnh tranh thu
hút nhiều sinh viên, kể cả sinh viên nước
ngoài vào học. Để nhanh chóng nâng cao
chất lượng đào tạo, nhiều trường đại học ở
các nước Đông Nam Á đã mở rộng hợp tác
với các trường đại học danh tiếng Âu - Mỹ
và giảng dạy bằng tiếng Anh theo chương
trình của các trường đó. Các trường đại học
trong nước (Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Thành phố Hồ Chí Minh) đã khuyến
khích giảng dạy các chương trình đào tạo
chất lượng cao (ngành đào tạo: Cơ khí chế
tạo máy, ngành điện) bằng song ngữ: tiếng
Anh – tiếng Việt từ năm học 2014 – 2015.
1.3.5. Mở rộng quyền tự chủ của các
trường: Ngoài những trường ở các nước đã
có quy chế tự chủ từ trước, xu hướng mở
rộng quyền tự chủ đại học, nhất là tự chủ
trong đào tạo và thi cử. Từ năm học 2014 –
2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép
các trường tự ra đề và tuyển sinh trong kỳ
thi đại học hằng năm. Đây là một bước đột
phá về mở rộng quyền tự chủ của các
trường đại học. Quyền tự chủ giúp cho các
trường thoát khỏi việc phải vượt qua những
chặn rào thủ tục hành chính không đáng có
để áp dụng những cải tiến, những biện
pháp tiên tiến nhất mà hiệu quả đã được
kiểm chứng ở nhiều nước.
1.3.6. Xu hướng trường đa ngành
nghề: Ưu thế quan trọng nhất của các
trường đa ngành so với trường đơn ngành
là tận dụng hiệu quả hơn nguồn nhân lực
và cơ sở vật chất của trường, đồng thời
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác
liên ngành trong đào tạo và nghiên cứu
khoa học. Đây là xu hướng đã diễn ra
mạnh ở các nước Đông Nam Á, và các
nước Đông - Âu. Ngoài các trường đa
ngành mới thành lập, nhiều trường đơn
ngành trước kia đã chuyển thà