Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trường đại học trong thời kỳ hội nhập

TÓM TẮT Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học là một yêu cầu cần được thực hiện ưu tiên. Nó mang ý nghĩa về lợi ích nội sinh; là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhà trường quản lý hiệu quả hơn. Về lợi ích ngoại sinh; kiểm định chương trình đào tạo là mang đến sự an tâm, tin cậy cho lãnh đạo ngành giáo dục, người học, phụ huynh và xã hội. Thời kỳ hội nhập các trường đại học phải kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Vì đó là sự tồn tại và phát triển thương hiệu của nhà trường. Hiện nay có các chuẩn kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam (VNU - CEA), Kiểm định giáo dục Đông Nam Á (AUN), Kiểm định giáo dục của Hoa kỳ (ABET)

pdf12 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trường đại học trong thời kỳ hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014 56 KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP TRƯƠNG MINH TRÍ(*) TÓM TẮT Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học là một yêu cầu cần được thực hiện ưu tiên. Nó mang ý nghĩa về lợi ích nội sinh; là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhà trường quản lý hiệu quả hơn. Về lợi ích ngoại sinh; kiểm định chương trình đào tạo là mang đến sự an tâm, tin cậy cho lãnh đạo ngành giáo dục, người học, phụ huynh và xã hội. Thời kỳ hội nhập các trường đại học phải kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Vì đó là sự tồn tại và phát triển thương hiệu của nhà trường. Hiện nay có các chuẩn kiểm định của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam (VNU - CEA), Kiểm định giáo dục Đông Nam Á (AUN), Kiểm định giáo dục của Hoa kỳ (ABET) Từ khoá: kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, trường đại học, thời kỳ hội nhập ABSTRACT Quality inspection training program of the university is a requirement to be made a priority. It brings significant benefits endogenous; improving the quality of education and training, school management more efficient. Regarding external benefits; inspection program is to bring peace of mind, confidence for educational leaders, students, parents and society. Integration period universities have quality control programs. Because it is the survival and development of the brand. There are currently testing standards: (VNU - CEA) VNU Vietnam, AUN (Calibration Southeast Asia), ABET (Accreditation standards of the United States)... Keywords: quality inspection training program, university, integration period 1. ĐẶT VẤN ĐỀ(*) Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), giáo dục là một trong các dịch vụ của hội nhập. Đại học Việt Nam đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, huy động được nhiều nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục đại học, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng (*)ThS, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước những thách thức và yêu cầu ngày càng cao trong quá trình hội nhập và phát triển, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần được tiếp tục đổi mới, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến kiểm định chất lượng chương trình đào tạo, các điều kiện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Nhà nước cũng đã khuyến khích các trường đại học và các chương trình đào tạo đăng ký kiểm định hoặc đánh giá bởi các tổ chức kiểm định quốc tế. [12] 57 1.1. Khái niệm chương trình đào tạo Chương trình đào tạo thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo, điều kiện nhập học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào tạo, chuẩn kiến thức, kỹ năng của người học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành, thực tập; kế hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách thức đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình. Chương trình đào tạo được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. - Kiến thức giáo dục đại cương: Là kiến thức của những môn khoa học cơ bản vừa có tính chất đại cương của bậc đại học vừa có tính chất nền tảng cho việc đào tạo chuyên ngành. Phần kiến thức này chủ yếu được giảng dạy ở ba học kỳ đầu của khóa học. - Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp: Là kiến thức của những môn khoa học chuyên ngành, trang bị cho sinh viên những kiến thức, kỹ năng của một ngành đào tạo mà họ đã chọn để đạt trình độ kỹ sư hoặc cử nhân, tùy theo ngành. Phần kiến thức này được giảng dạy trên cơ sở nền tảng của phần kiến thức giáo dục đại cương. Đề cương chi tiết của từng học phần phải thể hiện rõ số lượng tín chỉ, điều kiện tiên quyết (nếu có), học trước, học song hành, nội dung lý thuyết và thực hành, cách thức đánh giá học phần, giáo trình, tài liệu tham khảo và điều kiện thí nghiệm, thực hành, thực tập phục vụ học phần. Chương trình đào tạo của các trường đại học áp dụng cho các khóa 2012 trở về sau có tổng số tín chỉ là khoảng 150. [7] 1.2. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo Kiểm định là một quá trình đánh giá toàn diện từ cung cách quản lý, cơ sở vật chất, nội dung giảng dạy đến chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Kiểm định trước hết phải là một quá trình tự nguyện của một trường đại học. Kiểm định quá trình trường tự nhìn lại mình để nhận ra mặt mạnh và mặt yếu. Qua đó đưa ra một lộ trình phát triển cho tương lai. Đó là một quá trình tự thân vận động theo hướng tích cực nhất, nó không phải là cứu cánh. Kiểm định còn là “sự tự chịu trách nhiệm” của nhà trường đối với những người có lợi ích và của quá trình giáo dục, đào tạo, đến sự hiện hữu của trường như nhà đầu tư, xã hội. Làm được như vậy trường đã tăng cường được tính minh bạch của nhà trường đối với xã hội. 1.2.1. Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục + Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội) (VNU-CEA) Ngày 5/9/2013, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 3568/QĐ– BGDĐT thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội. Tên giao dịch bằng tiếng anh: VNU Center for Education Accreditation (VNU- CEA). + Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (VNU-HCM) Quyết định số 5570/QĐ–BGDĐT, ngày 22/11/2013 thành lập Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tên giao dịch bằng tiếng anh: VNU–HCM center for Education Accreditation (VNU- HCM CEA). Nhiệm vụ của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục là đào tạo kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp. Đây là tổ chức 58 kiểm định đầu tiên của Việt Nam được quyền đánh giá và công nhận cho các trường đại học và các chương trình đào tạo ở trong nước. Các tổ chức này được quyền đưa ra các quyết định công nhân hay không công nhận các trường đại học và các chương trình đào tạo đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục mà không bị can thiệp bởi bên thứ ba. [9] Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục là tổ chức thực hiện các dịch vụ công về kiểm định chất lượng giáo dục, tư vấn, giám sát việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục theo các chuẩn mực quốc gia, khu vực và quốc tế. Kiểm định chất lượng giáo dục theo các tiêu chuẫn của Bộ tiêu chuẩn kiểm định chương trình đào tạo do Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đảm nhận, việc công nhận nhà trường đạt chuẩn kiểm định của quốc gia và bằng cấp có giá trị ở trong nước. Các tổ chức kiểm định ngoài công lập có thể được thành lập tại Việt Nam sau năm 2015. Hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam đã tạo được niềm tin trong các cơ sở giáo dục đại học. Sự tin tưởng này hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học cùng nhau hợp tác trong việc chuyển đổi tín chỉ, trao đổi sinh viên và công nhận bằng cấp lẫn nhau. [8] 1.2.2. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo chuẩn kiểm định chất lượng của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN) Với mục đích phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đại học trong khu vực ASEAN, tháng 11 năm 1995, Mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á AUN-QA (ASEAN University Network - Quality Assurance) đã được thành lập. Tính đến nay (tháng 9/2014), đã có 27 trường đại học đến từ 10 quốc gia (trong đó có Việt Nam) trong khu vực trở thành thành viên của tổ chức này [4]. Nhằm đẩy mạnh công tác đảm bảo chất lượng bên trong các trường đại học trong khu vực, AUN đã đưa ra sáng kiến đánh giá chất lượng giáo dục đại học theo những tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng chung của khu vực ASEAN. Đây cũng là cách mà mạng lưới các trường đại học ASEAN nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau về chất lượng đào tạo giữa các trường trong khu vực cũng như với các trường đại học đối tác trên thế giới, từng bước góp phần thúc đẩy sự công nhận thành quả học tập và phát triển hợp tác giữa các trường đại học trong khu vực Đông Nam Á. Theo TS. Nguyễn Ngọc Thanh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà nội, việc lựa chọn kiểm định theo chuẩn AUN nhằm giúp các trường biết chương trình đào tạo đã đạt đến cấp độ nào trên thang đánh giá của khu vực. Qua đó, phát hiện chương trình còn tồn tại những gì cần khắc phục nhằm đảm bảo chương trình đạt chất lượng ngang tầm các chương trình cùng lĩnh vực trong khu vực ASEAN. [2] Trong Bộ tiêu chuẩn của AUN có 18 tiêu chuẩn với 74 tiêu chí. Mỗi tiêu chí được đánh giá theo 7 mức là: 1= không có gì (không có tài liệu, kế hoạch, minh chứng ); 2 = chủ đề này của hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong mới chỉ nằm trong kế hoạch; 3 = có tài liệu, nhưng không có minh chứng rõ ràng; 4 = có tài liệu và minh chứng; 5 = có minh chứng rõ ràng về hiệu quả trong lĩnh vực xem xét; 6 = chất lượng tốt; 7 = xuất sắc. Mỗi tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn đều có trọng số như nhau, điểm đánh giá của toàn bộ chương trình là điểm trung bình cộng của cả 74 tiêu chí. 4.0 điểm, là ngưỡng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng của AUN, trong đó điểm tối đa là 7 59 điểm. Các trường kiểm định đạt theo chuẩn kiểm định chất lượng của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á, việc công nhận và bằng cấp có giá trị ở các nước trong khu vực Đông Nam Á. Như vậy, những sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học đạt chuẩn này sẽ dễ dàng hội nhập trong khu vực ASEAN. [3] 1.2.3. Kiểm định chất lượng giáo dục theo chuẩn kiểm định ABET ABET (Accreditation Board on Engineering and Technology - Hội đồng Kiểm định về Kỹ thuật và Công nghệ); được thành lập từ năm 1932, là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ kiểm định chương trình đại học và trường đại học các ngành trong các lĩnh vực kỹ thuật (engineering), công nghệ (technology), điện toán (computing) và khoa học ứng dụng (applied science). ABET là chuẩn kiểm định được công nhận rộng rãi tại Hoa Kỳ. Trong nhiều trường hợp, các trường đại học phải có các chương trình kỹ thuật được công nhận bởi ABET thì mới đủ điều kiện để vận hành. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan chuyên môn đòi hỏi các kỹ sư phải tốt nghiệp từ các chương trình được công nhận ABET mới có thể hành nghề kỹ thuật. ABET kiểm định hơn 3.100 chương trình tại hơn 670 trường cao đẳng và đại học tại 23 quốc gia. ABET cung cấp chuyên ngành, kiểm định chất lượng chương trình và đánh giá một chương trình cá nhân của nghiên cứu, chứ không phải đánh giá một tổ chức như một toàn thể. ABET công nhận, đó là tự nguyện và đạt được thông qua một quá trình thẩm định, cung cấp sự bảo đảm rằng một chương trình đại học hoặc đại học đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng được thành lập bởi các ngành nghề mà các chương trình chuẩn bị cho sinh viên của mình. Từ năm 2007, tổ chức này chính thức cấp chứng chỉ kiểm định cho các chương trình đào tạo của các trường đại học ngoài nước Mỹ. Bộ tiêu chuẩn ABET bao gồm 9 tiêu chuẩn: 1/ Sinh viên (Student), 2/ Mục tiêu đào tạo (Program Educational Objectives), 3/ Khả năng sinh viên (Student Outcomes), 4/ Liên tục cải thiện (Continuous improvement), 5/ Chương trình đào tạo (Curriculum), 6/ Ban giảng huấn (Faculty), 7/ Cơ sở vật chất (Facilities), 8/ Hỗ trợ của trường đại học (Institutional Support), 9/ Tiêu chuẩn riêng của từng chương trình (Program criteria). Tiêu chuẩn “Sinh viên” là tiêu chuẩn được xem xét đầu tiên; thể hiện quan điểm của ABET, xem người học là trung tâm. Tiêu chuẩn này đòi hỏi phải theo dõi sự phát triển của sinh viên nhằm giúp họ đạt được các kết quả mong muốn, xem xét các yêu cầu về việc nhận sinh viên vào học, việc hỗ trợ người học qua hệ thống cố vấn, qua cách vận hành chương trình, “Mục tiêu đào tạo” đòi hỏi phù hợp với sứ mạng của trường đại học và dựa trên đóng góp của nhiều thành phần liên quan đến người học: giới doanh nghiệp, cựu sinh viên, giảng viên, Điểm nổi bật trong các tiêu chuẩn ABET là tiêu chuẩn “Khả năng sinh viên” (trước đây là “Chuẩn đầu ra”- Program Outcomes) với các yêu cầu cụ thể (gồm ít nhất 11 yêu cầu) thể hiện các kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học đạt được khi tốt nghiệp. Tiêu chuẩn này thể hiện quan điểm đánh giá của tổ chức ABET, là đánh giá sự thành công của một chương trình là dựa trên kết quả đạt được của người học chứ không tập trung vào những gì mà các giảng viên thực hiện trên lớp. Một tiêu chuẩn quan trọng khác là tiêu chuẩn “Liên tục phát triển”. Tiêu chuẩn này đòi hỏi một chương trình đào tạo cần phải có một hệ thống đánh giá 60 chất lượng người học để từ đó liên tục cải thiện nhằm nâng cao chất lượng đạt được. Tiêu chuẩn “Chương trình đào tạo” bao gồm một số yêu cầu tối thiểu về thời lượng của các khối kiến thức. Yêu cầu quan trọng nhất của tiêu chuẩn này là phải đảm bảo người học có thể đạt được các yêu cầu trong “Khả năng sinh viên” Các tiêu chuẩn khác nhằm đảm bảo khả năng vận hành chương trình đào tạo: có đủ giảng viên trong Ban giảng huấn và các giảng viên có thời lượng làm việc hợp lý cho công tác đào tạo; có đủ tiềm lực tài chính và cơ sở vật chất phục vụ cho việc vận hành chương trình đào tạo. Các trường đại học kiểm định đạt chất lượng giáo dục theo chuẩn kiểm định ABET, việc công nhận và bằng cấp có giá trị quốc tế. Những sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học đạt chuẩn ABET sẽ dễ dàng hội nhập quốc tế. [5] 1.3. Trường đại học trong thời kỳ hội nhập Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn hạn hẹp, được sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, với những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: thực hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng được tăng cường; chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có tiến bộ; hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá nhanh. Những thành tựu trên và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới cho phép và đòi hỏi giáo dục Việt Nam chuyển từ phát triển thực tế chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang mục tiêu coi trọng cả chất lượng, hiệu quả và số lượng theo nhu cầu xã hội. [13] Trong khoảng hai thập niên qua, nền giáo dục đại học trên thế giới đã có những chuyển hướng sâu rộng đáng để tham khảo, nhất là trong tình hình xã hội đang đề cập ngày càng nhiều đến nhu cầu cải cách cấp bách giáo dục đại học của nước ta. Một số chuyển hướng đáng kể như sau: 1.3.1. Giáo dục hóa đại học: Cùng với sự phát triển nhanh về mọi mặt của xã hội, giáo dục đại học đã chuyển mạnh từ nền giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đời sống văn hoá và nguồn nhân lực trình độ cao. Số trường đại học mới thành lập gia tăng ở các tỉnh, cùng với sự đa dạng hoá các loại hình đào tạo (tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo liên thông, đào tạo theo dự án,). 1.3.2. Thay đổi mục tiêu đào tạo theo yêu cầu phát triển xã hội: Trong thời đại thông tin, khối lượng kiến thức của nhân loại gia tăng nhanh chóng. Vấn đề quan trọng hơn không phải là truyền đạt cho sinh viên bao nhiêu kiến thức, mà là trang bị cho sinh viên khả năng tự thu thập kiến thức, tự thân phát triển và năng lực giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Vì vậy, người ta nói: dạy học đại học là dạy cách học cho sinh viên. Sự thành đạt của con người ngày nay chủ yếu dựa vào những kiến thức tự học chứ không phải là số kiến thức do thầy truyền đạt ở nhà trường. [6] 1.3.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy của người thầy và cách học của sinh viên: Ngày nay, vai trò chủ yếu của người thầy là hướng dẫn việc học tập (facilitator of learning) của sinh viên, còn sinh viên tiếp 61 thu kiến thức chủ yếu thông qua tự học và thảo luận nhóm, dưới sự hướng dẫn của thầy, theo phương châm lấy sinh viên làm trung tâm (student centered learning). Để thực hiện được điều này, các trường đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực: ứng dụng đa phương tiện trong dạy học và phát huy tính năng động, sáng tạo của sinh viên như nghiên cứu tình huống (case study), học trên cơ sở giải quyết vấn đề (problem based learning), học qua khám phá (learning by discovery), Internet và các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã được tích cực huy động để hỗ trợ cho việc học tập của sinh viên. Sinh viên ngày càng tham gia nhiều hơn và có hiệu quả hơn vào các công trình nghiên cứu khoa học để rèn luyện và trải nghiệm năng lực sáng tạo. 1.3.4. Xu hướng giảm sự bao cấp của nhà nước về tài chính: Sự phát triển mạnh quy mô đào tạo cùng với sự gia tăng nhanh chi phí đào tạo đại học đã trở thành gánh nặng tài chính đối với các chính phủ. Nếu trước kia các trường đại học công chủ yếu tồn tại nhờ vào nguồn tài chính công (ở một số nước, ngay cả các trường tư cũng được nhà nước tài trợ một phần), thì nay một số nước như Thái Lan và cả nước giàu như Nhật Bản cũng đang thực hiện chính sách giảm dần mức trợ cấp của nhà nước cho các trường đại học công và cho phép các trường tự chủ về tài chính. Điều này bước đầu có gây một số khó khăn cho các trường, nhưng ngược lại cũng thúc đẩy các trường chi tiêu hợp lý hơn, nâng cao tính năng động và hiệu quả hoạt động trong các lĩnh vực: hợp đồng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tìm nguồn tài trợ, sản xuất và dịch vụ, Mặt khác, học phí là nguồn tài chính quan trọng nhất của trường, vì vậy các trường cũng phải nâng cao chất lượng đào tạo để cạnh tranh thu hút nhiều sinh viên, kể cả sinh viên nước ngoài vào học. Để nhanh chóng nâng cao chất lượng đào tạo, nhiều trường đại học ở các nước Đông Nam Á đã mở rộng hợp tác với các trường đại học danh tiếng Âu - Mỹ và giảng dạy bằng tiếng Anh theo chương trình của các trường đó. Các trường đại học trong nước (Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh) đã khuyến khích giảng dạy các chương trình đào tạo chất lượng cao (ngành đào tạo: Cơ khí chế tạo máy, ngành điện) bằng song ngữ: tiếng Anh – tiếng Việt từ năm học 2014 – 2015. 1.3.5. Mở rộng quyền tự chủ của các trường: Ngoài những trường ở các nước đã có quy chế tự chủ từ trước, xu hướng mở rộng quyền tự chủ đại học, nhất là tự chủ trong đào tạo và thi cử. Từ năm học 2014 – 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép các trường tự ra đề và tuyển sinh trong kỳ thi đại học hằng năm. Đây là một bước đột phá về mở rộng quyền tự chủ của các trường đại học. Quyền tự chủ giúp cho các trường thoát khỏi việc phải vượt qua những chặn rào thủ tục hành chính không đáng có để áp dụng những cải tiến, những biện pháp tiên tiến nhất mà hiệu quả đã được kiểm chứng ở nhiều nước. 1.3.6. Xu hướng trường đa ngành nghề: Ưu thế quan trọng nhất của các trường đa ngành so với trường đơn ngành là tận dụng hiệu quả hơn nguồn nhân lực và cơ sở vật chất của trường, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác liên ngành trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đây là xu hướng đã diễn ra mạnh ở các nước Đông Nam Á, và các nước Đông - Âu. Ngoài các trường đa ngành mới thành lập, nhiều trường đơn ngành trước kia đã chuyển thà