"Kinh tế chính trị" chỉ nghệ thuật quản lý kinh tế của một quốc gia để phân biệt với
"kinh tế” là việc quản lý gia đình (từ tiếng Anh "political" có nguồn gốc từ politike
trong tiếng Hy Lạp nghĩa là lo việc nước; còn "economy" có nguồn gốc từ chữ
oikonomia trong tiếng Hy Lạp nghĩa là quản lý gia đình; political economy được
dịch ra tiếng Việt là "kinh tế chính trị"). Có thể nói, kinh tế chính trị là kinh tế học
dưới con mắt của chính khách. Học thuyết kinh tế chính trị có tính hệ thống đầu
tiên là học thuyết của Adam Smith trong thế kỷ 18. Trong tác phẩm nổi tiếng An
8 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế chính trị
Mục lục
1 Đối tượng nghiên cứu
2 Các phương pháp tiếp cận
3 Mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị
4 Phạm vi nghiên cứu
o 4.1 Sản xuất
o 4.2 Tư liệu sản xuất
o 4.3 Phân phối
o 4.4 Trao đổi
o 4.5 Tiêu dùng
5 Các trường phái
o 5.1 Kinh tế chính trị cổ điển
o 5.2 Kinh tế chính trị Marxist
o 5.3 Kinh tế chính trị tân cổ điển
o 5.4 Kinh tế chính trị Keynes
6 Môn học liên quan đến kinh tế chính trị
7 Học thuyết chịu ảnh hưởng bởi kinh tế chính trị
8 Chú thích
9 Tham khảo
10 Liên kết ngoài
Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị. Thuật ngữ "kinh tế chính trị" được dùng lần đầu tiên năm 1615 bởi
Antoine de Montchrétien trong tác phẩm Traité d'économie politique. Thuật ngữ
"kinh tế chính trị" xuất hiện do kết hợp các từ có nguồn gốc Hi Lạp với nghĩa là
"thiết chế chính trị"[1].
Đối tượng nghiên cứu
"Kinh tế chính trị" chỉ nghệ thuật quản lý kinh tế của một quốc gia để phân biệt với
"kinh tế” là việc quản lý gia đình (từ tiếng Anh "political" có nguồn gốc từ politike
trong tiếng Hy Lạp nghĩa là lo việc nước; còn "economy" có nguồn gốc từ chữ
oikonomia trong tiếng Hy Lạp nghĩa là quản lý gia đình; political economy được
dịch ra tiếng Việt là "kinh tế chính trị"). Có thể nói, kinh tế chính trị là kinh tế học
dưới con mắt của chính khách. Học thuyết kinh tế chính trị có tính hệ thống đầu
tiên là học thuyết của Adam Smith trong thế kỷ 18. Trong tác phẩm nổi tiếng An
Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất
và nguồn gốc của cải của các quốc gia, 1776, thường được gọi tắt là Của cải của
các quốc gia hay Quốc phú luận), Adam Smith chỉ rõ:
"Political economy considered as a branch of the science of a statesman or
legislator proposes two distinct objects, first, to supply a plentiful revenue or
subsistence for the people, or more properly to enable them to provide such
a revenue or subsistence for themselves; and secondly, to supply the state or
commonwealth with a revenue sufficient for the public service. It proposes
to enrich both the people and the sovereign."
Các phương pháp tiếp cận
Phương pháp lấy quyền lực là trung tâm. Đây là phương pháp tiếp cận
của kinh tế chính trị cổ điển. Do coi quyền lực là vấn đề trung tâm của chính
trị, nên họ cho rằng kinh tế chính trị nghiên cứu cách thức đạt được quyền
lực trong nền kinh tế.
Phương pháp lấy xã hội làm trung tâm. Đây là cách tiếp cận của kinh tế
chính trị Marx-Lenin và của chủ nghĩa công lợi. Các trường phái này xuất
phát từ lợi ích xã hội để nghĩ về nhà nước.
Phương pháp lấy nhà nước làm trung tâm. Trường phái kinh tế chính trị
tân cổ điển và kinh tế chính trị Keynes xuất phát từ cách xác định chính trị là
khoa học về nhà nước, còn kinh tế hàm ý thị trường. Vì thế, họ cho rằng
kinh tế chính trị nghiên cứu cân bằng quyền lực giữa thị trường và nhà nước.
Nhà nước tìm cách kiểm soát nền kinh tế để đạt được những mục đích của
mình.
Phương pháp lấy "chính nghĩa" làm trung tâm. Đây là cách tiếp cận của
kinh tế chính trị hiện đại. Kinh tế chính trị hiện đại xuất phát từ quan điểm
rằng có một hệ thống "quyền" gắn liền với thị trường, mà quan trọng nhất là
quyền sở hữu. Chính trị có thể xác định và tác động tới các quyền đó. Vì thế,
nhiệm vụ của kinh tế chính trị là nghiên cứu cách thức chính trị tác động tới
các hệ thống quyền lợi đó. Kinh tế chính trị hiện đại có thể phân thành ba
trường phái nhỏ hơn, đó là chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa khế ước hiện đại, và
chủ nghĩa Hegel.
Mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị
Học thuyết kinh tế chính trị nghiên cứu các hiện tượng kinh tế-xã hội để đưa ra các
qui luật chung có thể áp dụng được vào các quá trình hoạt động kinh tế-xã hội
nhằm phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Trong khi đó, trọng tâm của kinh tế
chính trị là quan hệ sản xuất.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu truyền thống của kinh tế chính trị thường được chia làm bốn
lĩnh vực là: sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu dùng.
Sản xuất
Sản xuất là hoạt động sử dụng tư liệu sản xuất đề tạo ra một vật thể hữu hình có giá
trị sử dụng. Kinh tế chính trị lấy sản xuất là đối tượng nghiên cứu tiên quyết và lao
động là điều kiện tồn tại của nó.
Tư liệu sản xuất
Tư liệu sản xuất là bất kì công cụ nào giúp người lao động biến nguyên liệu thành
vật thể hữu dụng. Bao gồm tư liệu hữu hình (máy móc, xưởng,..) và tư liệu vô hình
(sáng kiến, kiến thức,...). Hay tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối
tượng lao động. Người lao động dùng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra sản phẩm hàng hoá.
Phân phối
Lực lượng sản xuất cần được cung cấp tư liệu sản xuất, hàng hóa cần được vận
chuyển đến nơi tiêu thụ. Phân phối hình thành để đáp ứng nhu cầu vận chuyển
hàng hóa, tiền bạc và thông tin.
Trao đổi
Trao đổi là quá trình nhà sản xuất/nhà đầu tư trao đổi với người tiêu thụ. Người sản
xuất và người tiêu thụ có quan hệ biện chứng với nhau tức là mỗi người sản xuất là
người tiêu thụ, ngược lại mỗi người tiêu thụ cũng là người sản xuất. Trao đổi được
thực hiện trên thị trường trong đó tiền tệ đóng vai trò là phương tiện thanh toán.
Tiêu dùng
Tiêu dùng là quá trình tác động vào hàng hóa biến đổi nó quay trở lại trạng thái
không còn hữu dụng. Tiêu dùng phụ thuộc vào tính hữu dụng của hàng hóa và là
mục đích cuối cùng của nhà sản xuất.
Phạm vi nghiên cứu của kinh tế chính trị học hiện đại đã vượt xa khỏi bốn lĩnh vực
truyền thống này.
Các trường phái
Kinh tế chính trị cổ điển
Trường phái này bắt đầu từ tác phẩm Của cải của các dân tộc của Adam Smith
(1776) đến Các nguyên lý kinh tế chính trị của John Steward Mill (1848). Các đại
biểu của trường phái này bao gồm Smith, David Ricardo, Thomas Malthus và Mill.
Cái tên "Kinh tế chính trị cổ điển" là do Marx đặt ra.[2] Những đóng góp lớn của
trường phái này bao gồm lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường và lý luận về
giá trị, về phân phối. Smith là người đầu tiên thảo luận về lý luận giá trị lao động
và Ricardo phát triển lý luận này.
Kinh tế chính trị Marxist
Đây là trường phái kinh tế chính trị mà Karl Marx là người sáng lập và Fredric
Angel là một đại biểu vĩ đại khác. Trường phái này đã phát triển đáng kể những lý
luận về phân công lao động và lý luận giá trị lao động của kinh tế chính trị tân cổ
điển, từ đó giới thiệu lý luận về lao động thặng dư, giá trị thặng dư, quy luật giá trị
và thay đổi hình thái giá trị. Marx đã phê phán lý luận về dư thừa dân số của
Malthus và giới thiệu khái niệm về đội quân lao động dự bị. Marx đã tiếp thu và
phát triển những lý luận của Ricardo về phân phối. Những đóng góp quan trọng
khác của trường phái này là các lý luận về phương tiện sản xuất, phương thức sản
xuất, lực lượng sản xuất, v.v...
Kinh tế chính trị tân cổ điển
Kinh tế chính trị tân cổ điển có các đại biểu là William Stanley Jevons, Carl
Menger, Léon Walras, Philip Henry Wicksteed, William Smart, Alfred Marshall,
Eugen von Böhm-Bawerk, Friedrich von Wieser, Vilfredo Pareto. Trường phái này
phê phán quan niệm của kinh tế chính trị cổ điển về thỏa dụng, cũng như phê phán
quan niệm của kinh tế chính trị Mác-xít về giá trị sử dụng. Từ đó, họ giới thiệu
khái niệm về thỏa dụng biên. Chính vì thế, trường phái này còn được gọi là chủ
nghĩa cận biên. Đóng góp quan trọng khác của trường phái này bao gồm lý luận về
sự lựa chọn trong ràng buộc, quyền sở hữu, hàng hóa công cộng, độc quyền, ảnh
hưởng ngoại lai, v.v...
Kinh tế chính trị Keynes
Kinh tế chính trị Keynes phê phán lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường của
trường phái cổ điển. John Maynard Keynes phát triển lý luận về tính bất ổn định
của tái sản xuất và tăng trưởng của kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Môn học liên quan đến kinh tế chính trị
Xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội. Nhiều nhà xã hội học nghiên cứu các
quan hệ xã hội hình thành dựa trên quan hệ sản xuất cũng như sự ảnh hưởng của
quan hệ sản xuất lên hoạt động xã hội loài người.
Nhân loại học áp dụng kinh tế chính trị để nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống
tư bản toàn cầu và các nền văn minh địa phương.
Lịch sử luôn thay đổi, phương pháp lịch sử được môn kinh tế chính trị áp dụng để
nghiên cứu các qui luật chung của hoạt động kinh tế-xã hội.
Luật học, luật pháp được chính quyền áp dụng để quản lí xã hội. Trong kinh tế
chính trị, luật cùng với các tư tưởng xã hội và quan điểm chính trị tạo nên kiến trúc
thượng tầng.
Sinh thái học có quan hệ với kinh tế chính trị bởi vì hoạt động kinh tế-xã hội loài
người ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái. Những thay đổi về mặt sinh
thái tác động trở lại đến con người, nhiều khi tiêu cực.
Học thuyết chịu ảnh hưởng bởi kinh tế chính trị
Chủ nghĩa tự do cho rằng phát triển kinh tế do giá trị thặng dư tư bản mà sinh ra
chứ không phải giá trị thặng dư xã hội. Do đó lợi lộc thuộc cá thể chứ không phải
toàn xã hội.
Chủ nghĩa bảo thủ quan niêm giá trị thặng dư tư bản thuộc về từng cá thể và giá trị
thặng dư xã hội có rất ít hoặc không có. Đại diên của chủ nghĩa bảo thủ là Thomas
Hobbes, Leo Strauss.
Chủ nghĩa xã hội tin rằng tỉ lệ giữa giá trị thặng dư tư bản và giá trị thặng dư xã hội
rất thấp. Có nghĩa là mỗi cá thể tạo ra giá trị thặng dư đều là thành viên của xã hội
nên giá trị thăng dư đó là của xã hội.
Chủ nghĩa cộng sản không biệt giữa giá trị thặng dư tư bản và giá trị thặng dư xã
hội nhưng lại cho rằng tăng trưởng kinh tế-xã hội do giá trị thặng dư xã hội sinh ra.
Đại diện xuất sắc của chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx, Friedrich Engels, Lenin và
Lev Davidovich Trotsky.