Kinh tế học cổ điển và chủ nghĩa tư bản

Adam Smith là một trong các nhà trí thức có một nền tảng giáo dục tốt (trong ngành luật) mà có liên quan đến phong trào ngày nay như một "sự khai sáng người Scotland". Ngoài Adam Smith ra còn có thể kể đến David Hume. Hai vị này đều là người Scotland vùng Glasgow hoặc vùng Edinburg và họ đã cùng làm việc và viết những bài chống lại sự kiểm soát ngày càng mở rộng của nước Anh và những cuộc nổi dậy chống lại nó. Thậm chí trước cuộc cách mạng mà Mỹ chống lại luật lệ của Anh, vùng cao nguyên Scotland đã có những cuộc nổi dậy liên tục vào thế kỷ 18, tràn vào những thung lũng nhỏ hẹp, ở các vùng đất thấp Scotland thì dùng gươm giáo chống lại súng ống của Anh, thậm chí chiếm luôn cả phần đất của Anh

pdf23 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế học cổ điển và chủ nghĩa tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản Harry M. Cleaver, Jr. Dịch Viên: Nhân Thụy Adam Smith và Sự khai sáng người Scotland Adam Smith là một trong các nhà trí thức có một nền tảng giáo dục tốt (trong ngành luật) mà có liên quan đến phong trào ngày nay như một "sự khai sáng người Scotland". Ngoài Adam Smith ra còn có thể kể đến David Hume. Hai vị này đều là người Scotland vùng Glasgow hoặc vùng Edinburg và họ đã cùng làm việc và viết những bài chống lại sự kiểm soát ngày càng mở rộng của nước Anh và những cuộc nổi dậy chống lại nó. Thậm chí trước cuộc cách mạng mà Mỹ chống lại luật lệ của Anh, vùng cao nguyên Scotland đã có những cuộc nổi dậy liên tục vào thế kỷ 18, tràn vào những thung lũng nhỏ hẹp, ở các vùng đất thấp Scotland thì dùng gươm giáo chống lại súng ống của Anh, thậm chí chiếm luôn cả phần đất của Anh. Trong khi đó phản ứng đầu tiên của Anh chính là dùng quân đội (đã đánh bại quân phiến loạn Jacobite và tàn sát cả những thị tộc mà họ gặp phải) trong một thời kỳ lâu dài, với sự trợ giúp của giới trí thức "khai sáng người Scotland", họ đã tiến hành những gì mà ngày nay chúng ta gọi là chống chiến tranh du kích bao quanh, tiêu diệt và xoá sạch văn hoá những thị tộc ở vùng cao nguyên Scotland - có thể gọi đây là nạn diệt chủng văn hoá, nó đựơc lập ra để xoá sạch những con người đó và gom những người còn sót lại theo chế độ chủ nghĩa tư bản Anh. (Lưu ý: tham khảo thêm dòng lịch sử của Scotland và những đường dẫn khác để biết rõ thêm chi tiết, đặc biệt là phần xoá sổ vùng đất cao nguyên. Xem thêm phim Bravehearts và Rob Roy để thấy được Hollywood đã dựng lại những con người vùng cao nguyên đó và cả những tình hình chính trị lúc bấy giờ. Đọc tiểu thuyết Rob Roy của ngài Walter Scott để biết thêm một số hư cấu về một vị anh hùng có thật của Scotland.) Smith với Thuyết Trọng Thương Chúng ta hãy bắt đầu với việc khảo sát lại mối liên hệ giữa Smith và những người theo thuyết trọng thương trước thời của ông và ông đã cố gắng tìm tòi để có những nghiên cứu sâu xa hơn những tư tưởng của họ. Đề phục vụ cho mục đích của chúng ta, chưong đầu tiên trong tác phẩm của ông Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân làm giàu cho quốc gia - gồm bốn tập - có cung cấp một tóm tắt ngắn gọn về những quan niệm của ông ta - chủ yếu tập trung vào tiền tệ, ông cho rằng tiền như một hình thức chủ đạo để làm giàu và cũng cần thiết cho "thặng dư" xuất khẩu nhằm mở rộng mức cung tiền. Đầu tiên, Smith lập luận rằng trong những thời điểm thuận lợi thậm chí những người theo thuyết trọng thương cũng biết rằng tài sản thật sự của một quốc gia là "đất đai, nhà cửa, và những loại hàng hoá có thể tiêu thụ được" của nó hơn là tiền bạc. Thứ hai, ông cho là lợi nhuận đầu tiên thu được từ mậu dịch chính là mở rộng thị trường cho sản xuất trong nước, có thể bán đi bất kỳ hàng hoá sản xuất thừa trong nước và khuyến khích các ngành trong nước phát triển. Ông cũng chỉ trích đến việc người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã phá huỷ đế chế Mexico và Peru, do đó làm hạn chế mậu dịch với hai nước này. Ông cũng công kích cả sự độc quyền mậu dịch của những nước đế quốc ở Châu Âu như cho phép công ty Đông Ấn của Mun giữ thế độc quyền trong khi đó kiềm chế mậu dịch và tài sản của những nước thuộc địa. Ông đồng tình với chính sách mậu dịch tự do hơn với những vùng thuộc địa Bắc Mỹ. (Còn đối với người bản xứ của Bắc Mỹ, ông không quan tâm đến họ vì cho rằng họ "chỉ là những người không văn minh", do đó ông không dùng đến họ trong giao dich buôn bán hoặc giả không cần kiểm soát đến họ.) Ông cho rằng những bài viết của những người theo thuyết trọng thương chỉ là những lời ngụy biện cho chính những lợi nhuận mà họ đạt được. Smith với Nhu Cầu Áp Đặt Công Việc Trong khi Smith coi thường những bài viết về mậu dịch chỉ mang tính tư lợi của những người theo thuyết trọng thương thì chính những quan điểm của ông về nhu cầu áp đặt công việc đối với những người nhàn rỗi cũng giống như những quan điểm của những người đi trước ông. Trong quyển 2 chương thứ ba của tác phẩm Tài sản quốc gia của ông, ông có đề cập đến những lợi thế to lớn của lương trả cho công nhân, ông xem đó như là "nguồn vốn", tức là xem nó như những phương tiện dùng để kích thích con người làm việc, đó cũng có nghĩa là thu nhập, hay gọi là phần xứng đáng được hưởng của mỗi cá nhân. Những lời ông ta đưa ra phần lớn nhằm mục đích hướng đến cái cách mà những người có tiền sử dụng đồng tiền của họ vào mục đích tiêu thụ, cũng chính điều này làm cho con người ta trở nên lười biếng và không muốn làm việc, nhưng thật ra ông cũng rất ghét sự lười biếng ấy. Ông viết: "Tổ tiên của chúng ta đã quá an nhàn bởi vì họ cho rằng ngành công nghiệp bấy giờ phát triển như thế đã đủ. Như người ta vẫn thường nói rằng thà chơi hơn là làm việc mà chẳng được gì cả". Giống như Mun trước đây, ông cũng đưa ra Hà Lan như một ví dụ tham khảo. "Trong những tỉnh thành chuyên về sản xuất và buôn bán, những người thuộc tầng lớp thấp phần lớn sống nhờ vào tiền lương, họ là những con người chăm chỉ, khoẻ mạnh, không say xỉn, và hầu như ở các tỉnh khác của Anh và Hà Lan cũng như thế". Đối với thái độ chán ghét "thói lười biếng" và khuyến khích "tính chăm chỉ" thì Smith được xem như một điển hình cho những tác giả viết về kinh tế cùng thời với ông (cũng như đối với cả những người sau này) -- họ đều đưa ra những lý lẽ biện minh cho những người khác trong việc chuyển hầu hết nhân loại trở thành "người lao động". Không xét đến những nhà thần học hay sự chống đối nổi tiếng (như Calvin) và quan tâm đến những tác giả quen thuộc với lịch sử kinh tế, thì thật dễ dàng nhận thấy sự tiếp nối giữa mối quan tâm của John Locke về vấn đề "thay thế bất kỳ khuynh hướng lười biếng nào của trẻ em bằng những thói quen làm việc chăm chỉ," và sự chỉ trích của Smith về "những thói quen lười biếng" của những người công nhân khác nhau. Thật vậy, về mặt ngôn ngữ ta cũng thấy có nhiều nét tương đồng. Hãy so sánh những nghiên cứu của Locke về những mối nguy hiểm của "thái độ thờ ơ" của trẻ với những lời phê bình của Smith về "thái độ thờ ơ" của các công nhân của một nước trong chương mở đầu của quyển Tài sản quốc gia: "Thói quen thờ ơ và lười nhác vô tình trở thành những tính cách của những người công nhân mà do tự nhiên hay do người công nhân muốn vậy cũng bắt nguồn từ sự ép buộc họ cứ nửa tiếng lại phải thay đổi công việc thay đổi công cụ làm việc, và bàn tay họ cứ phải làm cả 20 cách khác nhau một ngày; điều này làm họ hầu như luôn có thái độ thờ ơ và lười biếng, và không thể chuyên tâm vào những công việc thậm chí cấp thiết" Hãy so sánh hai quan điểm về "đạo đức trong công việc" ở trên với hai quan điểm trái ngược khác về niềm hân hoan của thái độ thờ ơ và lười biếng. Quan điểm đầu là của David Thoreau trong "Bài Luận Về Những Đặc Tính Tốt Của Việc Bộ Hành", quan điểm thứ hai là của Bertrand Rusell trong bài luận về Tán Dương Thái Độ Nhàn Hạ Thoreau: "Trong cuộc đời tôi, tôi mới chỉ biết qua một, hai người hiểu được nghệ thuật bộ hành, người mà có biệt tài đi thơ thẩn; từ này bắt nguồn từ "những người nhàn rỗi ở độ tuổi trung niên cứ đi lang đây đó và xin của bố thí. Họ chằng bao giờ đặt bước chân lên vùng đất thánh như họ nói, thật ra đơn thuần họ là những người nhàn rỗi. Tuy nhiên, một số thì bắt nguồn từ sans terre nghĩa là vô gia cư, do đo đương nhiên là không có nhà cửa gì cả nhưng đều có mặt khắp mọi nơi. Đây chính là bí quyết thành công của những người đi lang thang. Suốt ngày anh ta cứ ngồi trong nhà, nhưng anh ta có thể là một gã lang thang vĩ đại, nhưng người đi thẩn thờ thì chẳng vẫn vơ khác gì dòng sông đang tìm đường ra biển lớn." Russell: "Trong một thế giới nơi mà không có ai bị ép buộc làm việc hơn 4 giờ một ngày, thì ai có những đam mê khoa học riêng thì có thể theo đuổi đam mê ấy của mình, và người hoạ sĩ có thể vẽ tranh mà không sợ bị chết đói, tuy nhiên tranh của anh ta phải có nét gì đặc sắc. Những nhà văn trẻ sẽ không bị ràng buộc phải thu hút sự chú ý của mọi người qua những tác phẩm kiếm cơm của họ, với quan điểm độc lập về kinh tế là cần thiết cho những tác phẩm mang tầm vóc vĩ đại, đối với điều này, khi thời điểm đó đến, thì họ lại mất đi niềm đam mê và khả năng thực hiện nó. […] Trên hết, cuộc sống sẽ đầy ấp hạnh phúc và vui thú thay vì những cơn căng thẳng thần kinh, trạng thái mệt mỏi, và chứng khó tiêu. Công việc phải tạo ra sự say mê chứ không chỉ làm cho con người kiệt sức. Bởi vì con người bị mệt mỏi trong giờ nghĩ ngơi của họ, nên họ sẽ không đòi hỏi những thú giải trí thụ động và nhạt nhẽo. Ít nhất có một phần trăm sẽ không chịu dành thời gian của mình vào những nghề nghiệp của mình nhằm phục vụ cho vấn đề của cộng đồng, và do họ không lệ thuộc vào những mục đích này nên cái tính độc đáo của họ sẽ không gây trở ngại gì, và họ cũng không cần phải tuân theo các tiêu chuẩn do những nhà phê bình lớn tuổi định ra. Nhưng điều này không chỉ đối với các trường hợp có thể được chấp nhận như thế này mà do có lợi thế về sự an nhàn rãnh rỗi. Đối với những người đàn ông và phụ nữ bình thường, thì họ sẽ càng trở nên cởi mở hơn, ít bị ngược đãi hơn, và ít có cái nhìn nghi ngờ hơn đối với người khác. Mưu đồ tiến hành chiến tranh cũng trở nên lụi tàn, một phần vì lý do này, và một phần do nó liên quan đến những công việc đòi hỏi tính dài lâu và nghiêm khắc cho tất cả mọi người. Về mặt đạo đức, sự đôn hậu là một đức tính cần thiết nhất, và nó chính là kết quả của sự nhàn hạ và an toàn, chứ không phải của một cuộc sống đầy ấp cạnh tranh gay gắt. Những phương pháp sản xuất hiện đại đã có thể cho tất cả mọi người sự nhàn hạ và an toàn; thay vì thế chúng ta lại lựa chọn cách làm việc quá sức vì một mục đích nào đó và cả sự nghèo đói. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn cứ giữ thái độ năng động như thời chúng ta chưa có máy móc, trong trường thế này chúng ta đã quá dại dột nhưng không có bất kỳ lý do nào bắt chúng ta dại dột mãi như thế." Quan điểm khác nhau giữa Smith và những người theo thuyết trọng thương chính là ông nhấn mạnh đến nhân tố sản xuất, xem đây là một địa thế thực tế nhằm thúc đấy người ta làm việc chứ không do nhân tố mậu dịch mà nhân tố này chỉ được xem là thứ yếu mà thôi. Rõ ràng rất nhiều người đã bị thúc ép làm việc trên những chuyến tàu ngoại thương - và những người này cũng như những cuộc đấu tranh của họ (như chiếm tàu, làm cướp biển…) là nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc kháng cự rộng lớn đối với tư sản - nhưng mặt số lượng thì họ đã kiến tạo ra một phần nhỏ của tầng lớp lao động. Khi xét đến khía cạnh phân chia lao động quốc tế đang phát triển (như là những người nô lệ tại Mỹ có nhiệm vụ sản xuất ra sợi cotton và sau đó chúng được chuyển sang các nhà máy tại Anh) thì những người đi biển như vậy (là những người có nhiệm vu khuân vác, vận chuyển và phân phát mặt hàng sợi đó qua Đại Tây Dương) về mặt nào đó thì được xem là "bản chất" của "nhân tố toàn cầu" đang nổi bật như một dây chuyền sản xuất mang từng bộ phận đến cho người công nhân trong cùng một tổ chức, điều này dễ hiểu và kiên định hơn quan điểm mà Smith muốn nhấn mạnh. Tuy nhiên, Adam Smith chỉ nổi tiếng nhờ ông đã giải thích rõ hơn những người khác đã từng làm rằng nguồn gốc mới và quan trọng của số tài sản đang gia tăng kia thực chất là do những công việc làm mang lại, và phải làm những công việc bị bó buộc trong các nhà máy này của các nhà tư bản công nghiệp. Đó chính là lý do giải thích nguyên nhân tại sao Smith lại bắt đầu quyển Tài Sản Quốc Gia của ông với những phân tích về sự phân chia lao động trong nhà máy và những tác động của nó đến sản xuất và năng xuất lao động. Đây cũng chính là một khía cạnh mang tính bao quát mà hầu hết các phần đều liên quan đến phân tích những người theo thuyết trọng thương. (Và có một điểm mà người ta để ý thấy rằng vào thế kỷ 20 nó đã không được những nhà kinh tế học quan tâm nhưng lại gây được sự chú ý của những nhà kỹ sư công nghiệp, những nhà xã hội học, những nhà tâm lý học.) Smith với Trường Phái Trọng Nông Trước khi chuyển những phân tích của Smith về những vấn đề cơ bản của xã hội hiện đại, đầu tiên chúng ta hãy chú ý đến những quan niệm của ông về một trường phái tư duy kinh tế khác đối lập với thuyết trọng thương: trường phái trọng nông. Như chúng ta đã biết, những người theo thuyết trọng nông đã thay đổi những quan điểm của mình từ mậu dịch sang hiệu suất của đất đai và nông nghiệp. Trong suốt thời gian sống tại Paris, Smith đã có dịp gặp gỡ thảo luận với Francois Quesnay và Smith rất ngưỡng mộ con người cũng như những quan điểm của ông ta. Mặc dù ông dành nhiều thời gian lắm cho việc thảo luận những quan điểm của họ trong quyển Tài sản quốc gia, nhưng nói nhiều về trường phái trọng thương, cũng bởi tư duy trọng thương có sức ảnh hưởng mạnh hơn của trọng nông và theo quan điểm của Smith thì quan điểm đó mang nhiều tính chất sai lầm hơn thuyết trọng nông. Thật vậy, trong chương 9 và chương cuối của quyển Tài Sản Quốc Gia, khi ông kết tội những người trọng thương, cho rằng những lý lẽ của họ là ngụy biện và chỉ phụ vụ cho chính bản thân họ mà thôi, trong khi đó ông lại liên tục tỏ lòng trân trọng đối với những lời lẽ văn hoa và những lời công kích của những người trọng nông. Về cơ bản thì cả hai sự công kích lẫn nhau giữa hai trường phái này đối với ông đều mang tính quan trọng cả. Đầu tiên, rõ ràng rằng tác phẩm Tableau Économique của Quesnay cũng như những nổ lực của nó trong việc cố đạt được tình thế tái sản xuất mở rộng của xã hội đã cuốn hút ông và có những ảnh hưởng đối với ông. Trong khi Smith phê bình Quesnay và những người theo ông khi họ nghĩ rằng trong nông nghiệp để đạt được năng suất thì chỉ cần mở rộng nhân tố lao động và cuối cùng lại tranh cãi đến tính năng suất của lao động trong ngành công nghiệp, thì dường như chính ông lại kế thừa những quan điểm được thể hiện trong quyển Tableau về sản xuất và tái sản xuất xã hội của nhân công nói chung và áp dụng chúng vào tác phẩm của ông. Ông ta không áp dụng hết quyển Tableau cho tác phẩm của mình nhưng nó cung cấp cho ông một điểm khởi đầu để ông có thể mường tượng ra và phân tích về một xã hội mà tự chính nó tái sản xuất. Tôi thiết nghĩ, đây chính là lý do giải thích tại sao ông lại viết rằng: "Tuy nhiên, hệ thống này cùng với những gì nó còn đang dỡ dang có lẽ cũng đã gần đúng nhất với một chân lý mà chưa được biết đến trong vấn đề kinh tế chính trị […]" Thứ hai, ngoài việc nhân tố lao động đóng một vai trò cơ bản (hơn là đất đai), Smith còn cho rằng đối với thuyết trọng nông nó cũng cần thiết cho một nhành "mậu dịch mở và tự do", trong cũng như ngoài nước, xem nó như một nhân tố quan trọng để mở rộng công nghiệp. Thật ra, mậu dịch tự do có nghĩa là thị trường tự do và đối với Smith những điều chỉnh tự động của thị trường tự do không chỉ là phương tiện tái sản xuất của xã hội mà còn tối đa hoá sự thịnh vượng của xã hội. Viễn cảnh chung về những thị trường tự thân điều hoà cũng giống như sự tổng hợp cả hai quan điểm của Cantillon và Hume về những động lực tự điều hoà của cơ chế về dòng luân chuyển và trở thành một thực thể của "bàn tay vô hình" nổi tiếng của Smith. [Lưu ý: sau Smith còn có một người phát ngôn cho quan điểm về mậu dịch tự do của ông, đó là Frédéric Bastiat (1801-1850) - là một nhà kinh tế học người Pháp. Mặc dù không phải là một lý luận vĩ đại nhưng Bastiat mang bản chất thông minh và đã công kích đến những chính sách bảo hộ mậu dịch thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả Smith. Không còn nghi ngờ gì nửa, tác phẩm của ông ta - quyển Kiến Nghị (Petition) - là một quyển được nhiều người biết đến nhất về những công kích mang tính trào phúng của ông đối với vấn đề bảo hộ bởi vì ông đứng về phía ủng hộ cho mậu dịch tự do.] Smith với Vấn Đề Giá Trị Phần đầu đề của quyển đầu tiên trong tác phẩm Tài Sản Quốc Gia bắt đầu với câu: "những động cơ nâng cao năng lực của nhân tố lao động". Vấn đề đầu tiên nhất của chưong mở đầu là "những động cơ" (tức là sự phân chia lao động) nhưng hiện tượng về vấn đề nâng cao mà ông ta quan tâm hàng đầu là "lao động". Nói cách khác, Smith bắt đầu tâp trung vào phân tích công việc làm, việc làm của con người, những việc làm của con người do những nhà tư bản tạo ra. Những nhà tư bản này không "sử dụng đồng tiền vào công việc" mà là sử dụng nó để thúc ép người ta làm việc. Quan điểm chính của ông về "lao động" hay "việc làm dưới chế độ tư bản" là những gì mà cuối cùng Smith tự phân biệt "trường phái kinh tế học cổ điển" nói chung với quan điểm về vấn đề tiền và mậu dịch của thuyết trọng thương và vấn đề đất đai của thuyết trọng nông. Smith đặc biết đã tạo ra "lý thuyết về giá trị lao động" (Labor Theory of Value). Cũng đã có nhiều "lý thuyết lao động" về mặt giá trị trước và sau Smith, nhưng những lý thuyết trước thời Smith có những thể hiện mang tính triết lý hơn về vấn đề trọng tâm chính của việc làm ngày đang gia tăng là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, ví dụ như những quan điểm của John Locke về vai trò cơ bản của người lao động trong sự kiến lập "tài sản" , còn những thuyết sau Smith lại ủng hộ cho tầng lớp lao động hoặc phê phán chủ nghĩa tư bản vì cách mà họ áp đặt công việc cho người khác đang làm huỷ hoại con người. Mặt khác, quan điểm cuả Smith cũng dựa vào quan điểm của Locke, tập trung vào mối quan tâm của thế giới về thay đổi cơ bản trong đời sống xã hội do tầng lớp tư bản đang phát triển tạo ra: con người bây giờ không làm việc để sống, mà là sống để làm việc. Trong quyển Tài Sản Quốc Gia, Smith đã mang đến cho độc giả thuyết lao động về mặt giá trị của ông qua những lý luận về tiền tệ và những thay đổi của giá trị tiền tệ (tiền kim loại truyền thống) và cả những thay đổi của giá trị hàng hoá được đo bằng tiền. Những thay đổi liên tục này khiến cho ông phải tìm kiếm một cái gì đó cố định hơn ẩn sau giá trị của đồng tiền. Những gì ông đưa ra như một điều-bí-mật-không-thể-che-dấu của giá trị đích thực chính là lao động (nhớ rằng ông bị ảnh hưởng những quan điểm căn bản từ Locke và những người trước thời ông). Một mặt, Smith đã nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề trọng tâm chính của lao động ngay trong câu đầu tiên của quyển Tài Sản Quốc Gia: "Lực lượng lao động hàng năm của mỗi quốc gia chính là quỹ cung cấp cho quốc gia đó những thứ tiện nghi và cần thiết cho cuộc sống mà quốc gia đó hàng năm cần dùng đến […]." Nhưng ở cuối chương 4 trong tác phẩm "Nguồn Gốc Và Cách Sử Dụng Tiền Tệ" - quyển 1- ông đi vào thảo luận sâu hơn về "mặt giá trị", ông viết "Giá trị mang hai ý nghĩa khác nhau, và đôi khi nó thể hiện tính hữu dụng của một vật đặc biệt gì đó, đôi khi nó lại thể hiện năng lực mua quyền sở hữu một loại hàng hoá nào đó. Nó có thể được gọi là 'giá trị sử dụng' hay 'giá trị trao đổi'. Dĩ nhiên "giá trị trao đổi" được ưu tiên chú ý nhiều hơn, và ông dành cả chương kế tiếp (5) để giải thích "tiêu thức đo lường thực sự của giá trị trao đổi" Ông giải thích "tiêu thức đo lường thực sự của giá trị trao đổi đối với tất cả các loại hàng hoá chính là lao động" "Giá trị thực của mọi thứ- mức giá mà con người phải trả để có được những thứ đó - là công sức mà người lao động đã bỏ ra để tạo ra nó. Giá trị mà một người thật sự phải trả để sở hữu một loại hàng hoá hoặc tuỳ ý sử dụng hay trao đổi nó lấy một thứ khác, chính là công sức để làm ra thứ hàng hoá đó mà anh ta tiết kiệm được và người lao động phải gánh lấy trách nhiệm đó. Những gì người lao động dùng tiền hay hàng hoá mua về mang một giá trị như công sức cần thiết để làm ra chúng. […] Sức lao động chính là giá trị đầu tiên, là vật dụng mang giá trị gốc, và tiền dùng để chi trả cho mọi thứ" Ông ta tiếp tục thảo luận về những vấn đề khó khăn khi đo lường số lượng tương đối sức lao động đến ước tính "giá trị" đầu tiên là bằng hàng hoá (trao đổi) và sau đó là bằng tiền (một hệ thống trao đổi được phát triển đầy đủ hơ
Tài liệu liên quan