Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: mâu thuẫn và phương hướng giải quyết

Trong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội (CNXH), sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh, kế hoạch của nhà nước và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh được sự phân cực của xã hội, nhưng lại bộc lộ nhiều nhược điểm cơ bản của nó. Chẳng những các qui luật kinh tế khách quan bị coi thường, mà tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một cách đầy đủ. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường; nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đổi mới, trong quan điểm về CNXH, người ta hiểu kinh tế thị trường (KTTT) chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản (CNTB), còn trong CNXH thì không còn KTTT. Thời gian đầu của quá trình đổi mới, tuy chúng ta đã hiểu rằng KTTT là điều không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng CNXH, nhưng vẫn còn thái độ hoài nghi, chưa tin tưởng về khả năng dung hợp KTTT với bản chất của CNXH. Thực tiễn đổi mới kinh tế-xã hội ở một số nước theo hướng phát triển KTTT đã chứng tỏ rằng nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng không phải là “tàn dư” của CNTB, cũng không phải là cái mà chúng ta bị bắt buộc, phải miễn cưỡng chấp nhận. Nó cũng không phải là “bước quá độ” trong quá trình đi lên CNXH và sẽ được vượt qua khi CNXH đã thắng lợi. Kinh tế thị trường XHCN là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế và nền văn minh nhân loại, là trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế nhân loại sau kinh tế thị trường TBCN. Có quan niệm như vậy mới thấy được rằng bản chất thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không phải là sự xóa bỏ nền KTTT nói chung, mà là sự quá độ từ nền kinh tế thị trường TBCN sang nền kinh tế thị trường XHCN. Kinh tế thị trường XHCN ngoài những nét chung với kinh tế thị trường TBCN như: một nền sản xuất hàng hóa với sự liên kết và trao đổi trên quy mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, với sự phát huy đầy đủ những qui luật: qui luật giá trị, qui luật cung cầu, v.v., kinh tế thị trường XHCN còn có đặc trưng riêng của nó: - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất thì trái lại, nền kinh tế thị trường XHCN, tuy cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng nó dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, tức sự làm chủ của người lao động đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội . - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN lây phân phối theo tư liệu sản xuất và theo vốn làm hình thức phân phối chủ yếu, thì trong nền kinh tế thị trường XHCN, qui luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ. - Nếu kinh tế thị trường TBCN phát triển theo hướng bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì kinh tế thị trường XHCN phát triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của xã hội do nền kinh tế thị trường TBCN tạo ra.

doc7 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2038 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: mâu thuẫn và phương hướng giải quyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: MÂU THUẪN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng (Đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Lý luận số 8 tháng 8-2000, tr.18-21) Trong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội (CNXH), sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh, kế hoạch của nhà nước và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh được sự phân cực của xã hội, nhưng lại bộc lộ nhiều nhược điểm cơ bản của nó. Chẳng những các qui luật kinh tế khách quan bị coi thường, mà tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một cách đầy đủ. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường; nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đổi mới, trong quan điểm về CNXH, người ta hiểu kinh tế thị trường (KTTT) chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản (CNTB), còn trong CNXH thì không còn KTTT. Thời gian đầu của quá trình đổi mới, tuy chúng ta đã hiểu rằng KTTT là điều không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng CNXH, nhưng vẫn còn thái độ hoài nghi, chưa tin tưởng về khả năng dung hợp KTTT với bản chất của CNXH. Thực tiễn đổi mới kinh tế-xã hội ở một số nước theo hướng phát triển KTTT đã chứng tỏ rằng nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng không phải là “tàn dư” của CNTB, cũng không phải là cái mà chúng ta bị bắt buộc, phải miễn cưỡng chấp nhận. Nó cũng không phải là “bước quá độ” trong quá trình đi lên CNXH và sẽ được vượt qua khi CNXH đã thắng lợi. Kinh tế thị trường XHCN là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế và nền văn minh nhân loại, là trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế nhân loại sau kinh tế thị trường TBCN. Có quan niệm như vậy mới thấy được rằng bản chất thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không phải là sự xóa bỏ nền KTTT nói chung, mà là sự quá độ từ nền kinh tế thị trường TBCN sang nền kinh tế thị trường XHCN. Kinh tế thị trường XHCN ngoài những nét chung với kinh tế thị trường TBCN như: một nền sản xuất hàng hóa với sự liên kết và trao đổi trên quy mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, với sự phát huy đầy đủ những qui luật: qui luật giá trị, qui luật cung cầu, v.v., kinh tế thị trường XHCN còn có đặc trưng riêng của nó: - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất thì trái lại, nền kinh tế thị trường XHCN, tuy cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng nó dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, tức sự làm chủ của người lao động đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội . - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN lây phân phối theo tư liệu sản xuất và theo vốn làm hình thức phân phối chủ yếu, thì trong nền kinh tế thị trường XHCN, qui luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ. - Nếu kinh tế thị trường TBCN phát triển theo hướng bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì kinh tế thị trường XHCN phát triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của xã hội do nền kinh tế thị trường TBCN tạo ra. - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN dựa trên sự khai thác của các quốc gia , của các khu vực phát triển đối với tài nguyên và lao động của các vùng, các nước kém phát triển, thì nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên sự hợp tác và trao đổi một cách bình đẳng và cùng có lợi giữa các vùng dân cư trong nước và giữa các dân tộc trên thế giới. Nước ta quá độ lên CNXH trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ là phổ biến; do đó, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng chưa phải là nền kinh tế thị trường XHCN, mà là một nền kinh tế quá độ : nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức một nền KTTT tuy còn chưa thoát khỏi những đặc điểm của kinh tế thị trường TBCN, nhưng bước đầu đã mang những yếu tố XHCN và những yếu tố này ngày càng lớn mạnh lên thay thế dần những yếu tố TBCN. Nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Sau đây, chúng tôi xin lần lượt nêu ra một số mâu thuẫn và những suy nghĩ của mình về những phương hướng giải quyết chúng. Một là: Nền KTTT trong điều kiện nền sản xuất nhỏ là phổ biến như ở nước ta thì chưa thể thoát khỏi tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Việc định hướng nền kinh tế nước ta đi lên CNXH không phải là sự phát triển tự phát, mà là kết quả của sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hướng và qui luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập: tính tự phát và tính tự giác trong sự phát triển kinh tế xã hội. Trong thời gian hiện nay, tính tự phát vẫn còn là cái cần thiết và không tránh khỏi trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong việc giải quyết những khó khăn và việc làm, trong lưu thông hàng hóa, v.v.. Tuy vậy, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự phát thì không thể thực hiện được những mục tiêu của CNXH. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách quan của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức, nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia, thì hậu quả của nó thật khôn lường. Giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế-xã hội là hết sức khó khăn, phức tạp; không phải là trong một lúc có thể xóa bỏ hoàn toàn tính tự phát, biến mọi hoạt động của con người thành hoạt động tự giác, mà là phát ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao năng lực nhận thức khoa học cũng như năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát của hoạt động của con người trong xã hội. Hai là: phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế TBCN, chấp nhận các hình thức sở hữu và kinh doanh có thuê mướn lao động và có bóc lột sức lao động, trong khi đó mục tiêu lâu dài của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ bóc lột. Ở đây một số mối quan hệ có mâu thuẫn cần phải được nghiên cứu giải quyết thỏa đáng, đó là mối quan hệ giữa các lợi ích: lợi ích của người lao động và lợi ích của người thê mướn lao động, mối quan hệ giữa sự phát triển của kinh tế tư nhân với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Không có cơ sở để khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức kinh doanh có thuê mướn lao động sẽ càng ngày càng giảm đi. Cũng là sai lầm nếu cho rằng, chỉ có thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác xã là phát triển theo định hướng XHCN và sẽ thay thế dần các thành phần kinh tế còn lại. Theo chúng tôi, tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một định hướng duy nhất: định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự trưởng thành của CNXH, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên, điều này chỉ có thể và hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của nhà nước XHCN, sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, sự lớn mạnh của thành phần kinh tế hợp tác. Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích người thuê mướn lao động và người lao động làm thuê, theo chúng tôi, đó là sự kết hợp hài hòa các lợi ích: lợi ích của người lao động làm thuê, lợi ích của người thuê mướn lao động và lợi ích của nhà nước. Sự bất công trong mối quan hệ giữa các lợi ích đều có tác dụng kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế . Nhà nước bằng hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế, xã hội của mình vừa khuyến khích lợi ích chính đáng và tính tích cực sáng tạo của những nhà kinh doanh, vừa hạn chế sự bóc lột và những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động kinh doanh của họ. Nhà nước thông qua nguồn thuế thu được và các khoản đóng góp khác từ các cơ sở kinh doanh mà mở rộng, phát triển các chương trình xã hội. Tuy nhiên, sự điều tiết thu nhập thông qua chính sách thuế, nếu không được thực hiện một cách hợp lý sẽ có tác động tiêu cực đến việc khuyến khích đầu tư. Kinh nghiệm của một số nước Bắc Âu trong thập kỷ 80 cho thấy điều đó. Ngoài ra, nhà nước cần khuyến khích mọi cơ sở kinh doanh tham gia vào những công trình phúc lợi tập thể, tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động, tham gia vào các hoạt động nhân đạo, v.v.. Ba là: một mặt, phát triển KTTT trong điều kiện xuất phát từ sản xuất nhỏ, thì xã hội chưa thể tránh khỏi những yếu tố của kinh tế thị trường TBCN, như sự cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh), sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng và các bộ phận dân cư và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn xã hội do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra dẫn đến sự bất bình đẳng và bất công xã hội. Mặt khác, định hướng XHCN không cho phép sự bất bình đẳng phát triển thành sự phân cực xã hội, không cho phép đẩy những người lao động vào tình trạng thất nghiệp, không chấp nhận tình trạng bất công tiêu cực ngày càng gia tăng. Một mâu thuẫn nữa lại xuất hiện: mâu thuẫn giữa bình đẳng, công bằng xã hội với tính cách là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và tình trạng bất bình đẳng, bất công không thể tránh khỏi do mặt trái của kinh tế thị trường làm nảy sinh. KTTT chỉ là phương tiện, là con đường để thực hiện các mục tiêu của CNXH. CNXH không chỉ phấn đấu đạt trình độ phát triển cao về đời sống vật chất và tinh thần, mà vấn đề quan trọng hơn là công bằng xã hội. Hơn nữa, không chỉ là công bằng xã hội, mà còn là bình đẳng xã hội. Trong mô hình cũ của CNXH, quan niệm và thực hiện không đúng sự bình đẳng xã hội đã dẫn đến tình trạng trì trệ của xã hội. Song điều đó không có nghĩa là lý tưởng về bình đẳng xã hội đã trở thành sai lầm hay lỗi thời. Sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại vấn đề bình đẳng xã hội, quan hệ giữa công bằng và bình đẳng xã hội, nhưng không phải là từ bỏ mục tiêu phấn đấu cho bình đẳng xã hội. Trong định hướng XHCN của sự phát triển xã hội ta, tất nhiên có nhiều mục tiêu cần hướng tới, nhưng chắc chắn trong đó có vấn đề bình đẳng xã hội. KTTT, tuy có mặt trái không thể tránh khỏi của nó, nhưng về cơ bản và lâu dài, nó là một trong những điều kiện để thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Trong điều kiện hiện nay, công bằng xã hội phải được hiểu ở cả hai mặt: mặt bình đẳng và mặt bất bình đẳng. Bên cạnh việc phấn đấu cho bình đẳng xã hội, chúng ta phải chấp nhận những bất bình đẳng hợp lý do yêu cầu khắc khe của KTTT. Chỉ có thể thực hiện sự bình đẳng từng mặt, chứ chưa thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn. Trong thời kỳ quá độ, kể cả trong CNXH, chỉ có thể thực hiện bình đẳng về cơ hội; còn về mặt hưởng thụ thì trước mắt chỉ có thể phấn đấu thực hiện bình đẳng ở sự thỏa mãn một số nhu cầu cơ bản nhất rồi dần dần phát triển lên. Bốn là, lợi ích là một trong những động lực của tăng trưởng kinh tế, do đó, để thực hiện tăng trưởng kinh tế cần phải phát huy mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Trong thời kỳ quá độ và kể cả trong CNXH, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không mất đi mà còn có những diễn biến phức tạp hơn. Điều này có thể chứng minh được một cách dễ dàng. Bởi vì, trong CNXH mọi cá nhân sẽ có điều kiện tốt hơn để phát triển về năng lực và nhu cầu. Sự phát triển nhu cầu và lợi ích cá nhân tất yếu có mặt trái của nó. Mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết một cách đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích của cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu cá nhân có lợi nhưng lợi ích của xã hội bị vi phạm thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Chẳng hạn, vì lợi ích cá nhân ích kỷ mà trong sản xuất kinh doanh và trong các hoạt động xã hội khác, người ta có thể phá hoại môi trường sống, có thể làm tất cả những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, miễn là những việc làm đó đem lại thu nhập cao cho họ. Trong trường hợp này, khi một thiểu số cá nhân được hưởng lợi lớn thì cộng đồng xã hội lại phải gánh chịu những thiệt hại do những cá nhân đó gây ra. Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ của cá nhân. Lợi ích chính đáng của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy; còn lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân dẫn đến sự thoái hóa, biến chất, ăn cắp, tham nhũng của một số không ít cán bộ trong bộ máy nhà nước. Nếu xã hội không có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng những không giảm đi, mà trái lại sẽ càng gia tăng, vì cùng với sự tăng trưởng kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên, và những thứ này lại được giao cho những cá nhân trực tiếp quản lý. KTTT làm phát triển tâm lý chạy theo đồng tiền của một bộ phận nhân dân; nó mở ra khả năng cho một số người không lao động vẫn có thể hưởng được thành quả lao động của người khác. Họ làm bất cứ việc gì, kể cả những việc phi nhân đạo để thu lợi, bất chấp hậu quả trước mắt và lâu dài của hoạt động đó. Ở đây cần chỉ ra một đặc điểm của thị trường ở nước ta là thị trường chưa phát triển, chưa vững chắc; trong nhiều trường hợp, nó chưa đánh giá đúng chất lượng của sản phẩm và chất lượng của lao động. Nhiều khi làm hàng giả có lợi cho người sản xuất hơn làm hàng thật, kể cả trong lãnh vực sản xuất văn hóa tinh thần. Chủ nghĩa cá nhân cũng là nguyên nhân của lối sống xa hoa, trụy lạc, làm băng hoại những giá trị đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Như vậy, trong điều kiện KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là điều có khả năng xảy ra và, trên thực tế, đã xảy ra ở một bộ phận nhất định trong xã hội. Chủ nghĩa cá nhân là biểu hiện tiêu cực của mâu thuẫn đó. Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, về cơ bản phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, đồng thời phải chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cũng có thể xuất hiện do nguyên nhân những sai lầm trong chủ trương, chính sách của nhà nước làm hạn chế, ngăn cản sự phát triển đa dạng, phong phú của nhu cầu, lợi ích cá nhân, làm suy giảm một cách đáng kể tính tích cực, sáng tạo của cá nhân. Đó cũng là một nguyên nhân của bất công xã hội, là tình trạng đã diễn ra trong mô hình cũ của CNXH. Tóm lại, sự phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN đang làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn. Sự thành công của CNXH phần lớn phụ thuộc vào việc giải quyết những mâu thuẫn đó. Do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ những mâu thuẫn này để thấy được tầm quan trọng của chúng và tìm biện pháp hữu hiêu để giải quyết chúng.