Kinh tế và văn hóa vật chất truyền thống của người Việt trên vùng đất An Khê (Gia Lai)

An Khê là vùng đất phía đông của tỉnh Gia Lai, là cửa ngõ, nấc thang quan trọng nối đồng bằng Bình Định với các cao nguyên phía tây của Tổ quốc. Trên vùng đất này, từ thế kỷ XVII đã có những người Việt đầu tiên lên sinh sống. Bộ phận dân cư này cũng được xác định là những lưu dân Việt lập nghiệp sớm nhất trên vùng đất Bắc Tây Nguyên. Hơn ba thế kỷ qua, việc kế thừa, bảo lưu những nét văn hóa từ quê cũ cộng với sự giao thoa và tiếp biến với cư dân Bahnar tại chỗ đã làm cho bộ phận người Việt ở An Khê định hình những nét văn hóa truyền thống độc đáo riêng trên vùng mà những người đồng tộc của họ vẫn coi là miền lắm “sơn lam chướng khí”. Cũng như trên những vùng đất mới khai phá ở phía nam, làng xóm của người Việt ở An Khê ban đầu thường rất nhỏ. Những nơi được xác định là xóm ấp đầu tiên ở An Khê như Tây Sơn Nhì (nay là vùng Cửu An), Tây Sơn Nhất (sau này là An Lũy, nay là phường Tây Sơn) ban đầu mỗi xóm cũng chỉ khoảng trên dưới 10 nóc nhà. Tên của các xóm thường được gọi theo tên một loại cây cổ thụ trong vùng hoặc đặc điểm của vùng. Ví dụ, ở thôn An Điền (xã Cửu An), những cư dân đầu tiên sống thành các xóm: xóm Cây Me, xóm Gò Cây Bền1 sau này, do những người mới đến xin nhập cư, cùng sự phát triển của các thế hệ con cháu đã làm cho các làng xã trên vùng đất An Khê trở nên đông đúc. Tuy nhiên, đến năm 1945, cả làng An Điền (xã Cửu An) cũng chỉ có khoảng 100 nóc nhà, toàn vùng Cửu An rộng lớn cũng chưa đến 200 nóc nhà.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 144 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế và văn hóa vật chất truyền thống của người Việt trên vùng đất An Khê (Gia Lai), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên A n Khê là vùng đất phía đông của tỉnh Gia Lai, là cửa ngõ, nấc thang quan trọng nối đồng bằng Bình Định với các cao nguyên phía tây của Tổ quốc. Trên vùng đất này, từ thế kỷ XVII đã có những người Việt đầu tiên lên sinh sống. Bộ phận dân cư này cũng được xác định là những lưu dân Việt lập nghiệp sớm nhất trên vùng đất Bắc Tây Nguyên. Hơn ba thế kỷ qua, việc kế thừa, bảo lưu những nét văn hóa từ quê cũ cộng với sự giao thoa và tiếp biến với cư dân Bahnar tại chỗ đã làm cho bộ phận người Việt ở An Khê định hình những nét văn hóa truyền thống độc đáo riêng trên vùng mà những người đồng tộc của họ vẫn coi là miền lắm “sơn lam chướng khí”. Cũng như trên những vùng đất mới khai phá ở phía nam, làng xóm của người Việt ở An Khê ban đầu thường rất nhỏ. Những nơi được xác định là xóm ấp đầu tiên ở An Khê như Tây Sơn Nhì (nay là vùng Cửu An), Tây Sơn Nhất (sau này là An Lũy, nay là phường Tây Sơn) ban đầu mỗi xóm cũng chỉ khoảng trên dưới 10 nóc nhà. Tên của các xóm thường được gọi theo tên một loại cây cổ thụ trong vùng hoặc đặc điểm của vùng. Ví dụ, ở thôn An Điền (xã Cửu An), những cư dân đầu tiên sống thành các xóm: xóm Cây Me, xóm Gò Cây Bền1 sau này, do những người mới đến xin nhập cư, cùng sự phát triển của các thế hệ con cháu đã làm cho các làng xã trên vùng đất An Khê trở nên đông đúc. Tuy nhiên, đến năm 1945, cả làng An Điền (xã Cửu An) cũng chỉ có khoảng 100 nóc nhà, toàn vùng Cửu An rộng lớn cũng chưa đến 200 nóc nhà.2 Để đảm bảo an ninh, các làng thường lập những trạm canh ở vị trí đầu làng. Ở An Điền, trạm canh được lập trên một gò đất ở phía đông, ngoài làng. Khu vực này sau được định danh là Trạm Gò. KINH TẾ VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT TRÊN VÙNG ĐẤT AN KHÊ (GIA LAI) ? NGUYễN THị KIM VÂN* * TS., Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai. Trong làng các ngôi nhà thường nằm không xa để bà con có thể tương trợ nhau, nhất là để hỗ trợ cùng chống kẻ thù và thú dữ. Đến thập niên 30 của thế kỷ XX, nhà cửa và cách thức làm nhà của người Việt ở vùng Bắc Tây Nguyên nói chung vẫn được Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi mô tả: “Nhà cửa thường được làm bằng gỗ, mái nhà lợp ngói. Tường trét đất theo lối Nhật Bản bằng cách: rơm trộn với đất sét đâm cho nhuyễn, đem trét vào vách đã có cột song gỗ, rồi để như vậy cho thật khô. Chừng bảy ngày sau lấy một thứ đất sét trắng, trộn với cát - một phần đất, ba phần cát - trét mặt ngoài làm áo; sau hòa đất trắng khuấy cho lỏng mà quét như ở dưới ta quét vôi”.3 Nhà ở truyền thống của vùng An Khê thường là nhà trệt, mái tranh, vách thưng tre nứa hoặc trát (trét) đất. Các hộ gia đình thường làm nhà theo kiểu chữ đinh (T) hoặc chữ L (giống cấu trúc nhà của người Kinh ở Bình Định, Quảng Ngãi). Bố cục nhà thông thường gồm có nhà chính và nhà ngang. Trong đó, nhà chính có 3 gian 2 chái hoặc 5 gian 2 chái. Kiểu nhà này được người dân địa phương gọi là nhà mái chái. 18 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên Nhà mái chái ở An Khê xưa thường không cao. Độ cao từ mặt đất đến nóc chỉ khoảng 3 m, vách cao khoảng 2 m. Khung nhà bằng gỗ, được làm theo kiểu nhà rường phổ biến ở miền Trung, vì 4 cột (nhìn mặt cắt) có giá chiêng, đặt trên xà lỏng. Đường kính thông thường của các cột cái không lớn lắm, chỉ khoảng từ 20 - 30 cm. Mỗi gian rộng khoảng 2,5 m, vì vậy mà toàn bộ diện tích của ngôi nhà chính chỉ khoảng trên dưới 30 m2. Những ngôi nhà đẹp là nhà được làm theo kiểu chồng đùi, phần từ xà lỏng (hay câu đầu) trở lên có thêm một con rường (chồng rường) vừa để giữ cho khung nhà thêm chắc chắn, vừa để trang trí. Ở Cửu An, những ngôi nhà đơn giản thường được làm theo kiểu 3 lỏng. Kiểu nhà này có 3 cây dọc chống từ xà ngang lên, giữ hai cây kèo không được liên kết với nhau bởi rường. Người dân địa phương giải thích: gọi là kiểu 3 lỏng vì 3 cây chống này đứng lỏng lẻo, không có cây bám. Để trát được vách đất, trước hết người ta phải dựng cây mầm (dọc) và cây trĩ (ngang).4 Trước đây, người An Khê thường lấy những cây thân gỗ nhỏ, tròn làm cây mầm; còn cây trĩ là cây sặt, đó là một loại cây thuộc họ song mây, không mối mọt. Sau, do việc tìm những loại cây trên khó khăn, nên cả cây mầm và cây trĩ đều được người dân thay bằng những thanh tre chẻ nhỏ. Sau khi dựng và buộc cho cây mầm và cây trĩ gắn kết với nhau, người ta bắt đầu trộn rơm vào trong đất rồi đạp cho rơm và đất quyện nhuyễn với nhau làm đất trét. Để cho tường thêm láng, đẹp, sau khoảng 7 ngày, khi bức tường đất đã khô, họ tiếp tục lấy đất sét trắng, trộn với cát theo tỷ lệ 1 phần đất, 3 phần cát rồi quét lớp hồ này phủ lên mặt ngoài. Cuối cùng, bước hoàn thiện bức tường là hòa đất sét loãng mà quét như quét vôi sau này. Tường nhà làm bằng cách này rất chắc chắn. Những năm giữa thế kỷ XX, nhiều gia đình ở An Khê còn thuê thợ từ Bình Định lên vẽ tranh trực tiếp vào tường nhà theo các chủ đề “xuân, hạ, thu, đông”, hoặc “tùng, cúc, trúc, mai”..., nếu không tinh mắt, người nhìn có thể nhầm các bộ tranh vẽ trên tường này với những tranh được in trên giấy rồi dán lên tường. Những nét đặc trưng này hiện vẫn còn thấy trong căn nhà của cụ Nguyễn Thảo, ở thôn An Điền Bắc 1, xã Cửu An. Những người già cho biết, trước kia ở vùng An Khê, cửa ra vào nhà thường phải làm “ngạch địa” chắn ngang. Ngạch này cao khoảng 60 cm so với mặt đất, hai bên đục lỗ, gài chốt. Kiểu cửa này vừa để giữ cửa cho chắc, vừa để phòng thú dữ, vì đây là vùng có rất nhiều cọp. Mái nhà được lợp bằng cỏ tranh hoặc rạ. Nhà ngang thường được xây cất đơn giản hơn nhà chính. Nhưng mọi sinh hoạt của gia đình như ngủ, ăn, bếp nấu, nơi đựng các vật dụng và lương thực... chủ yếu tập trung ở đây.5 Nhà cổ của cụ Bùi Meo. 19Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên Ở khu vực trung tâm thị xã An Khê, nơi vốn là ấp Tây Sơn Nhất và sau này mang tên xóm Lũy (nay là tổ dân phố 15, phường An Phú, thị xã An Khê), hiện vẫn còn một số ngôi nhà cổ, điển hình như của gia đình cụ Bùi Meo (tức thầy giáo Lên), hay nhà của gia đình cụ Huỳnh Ngọc Chương (mười Chương). Ngoài ra, trong vùng còn có nhà cổ của gia đình cụ xã Tám, nhà cổ của gia đình cụ Văn Minh Trí ở làng Tân Lai xưa, nay thuộc tổ 3, phường An Bình Ngôi nhà cổ của cụ Bùi Meo, hiện do con trai cụ là Bùi Sinh tiếp quản. Ngôi nhà này được xây dựng từ năm 1759, là ngôi nhà ba gian hai chái lớn nhất trong những ngôi nhà cổ ở An Khê, với diện tích xây dựng 12,3 m x 9,4 m (115,62 m2). Các vì của căn nhà được làm bằng gỗ thò đo. Đầu kèo và xà đều uốn chạm rồng. Ba gian ngoài cách biệt với gian trong bằng lớp cửa ngăn bằng gỗ được chạm khắc khá tỉ mỉ. Bộ mái nhà được làm bằng hệ thống xà gồ rất dày, mái lợp tranh. Mái ngói hiện nay được cụ Bùi Meo thay vào khoảng năm 1959, khi mái tranh cũ bị hư. Nằm ngay phía sau đình An Lũy (An Khê Trường hiện nay) là ngôi nhà cổ thứ hai của An Lũy - nhà của cụ Mười Chương (hiện do ông Huỳnh Ngọc Sơn, con trai cụ Mười Chương tiếp quản). Kiến trúc của ngôi nhà này cũng gần giống với nhà của cụ Bùi Meo. Nhà gồm 3 gian, 2 chái, có diện tích xây dựng 12,6 m x 9,5 m (119,70 m2). Tất cả phần gỗ trong nhà đều được làm từ các loại gỗ quý, bền chắc như: thò đo, kiền kiền, tứ thiết. Vách nhà được làm bằng đất trộn với rơm, cát. Bao phủ bên ngoài sườn vách là những cây chằn rằn, cây sặt buộc bằng lạt tre. Điểm tiêu biểu nhất của cả hai ngôi nhà cổ này là lớp rầm cách mái nhà chưa đầy một mét. Lớp rầm này được làm bằng vỏ cây kiền kiền, sau đó đắp lên lớp đất sét nhuyễn trộn với rơm, có tác dụng như trần nhà, giữ cho ngôi nhà ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè.6 Khoảng những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, vùng An Điền Bắc mới có ngôi nhà ngói đầu tiên, đó là nhà của gia đình ông hương bộ trưởng. Còn ở An Điền Nam, ngôi nhà ngói đầu tiên là nhà của ông Đặng Để (tức Sáu Tú) - một nông dân do cần cù khai phá vùng Điền Nam mà có nhiều ruộng đất. Với mong muốn được các thần phù hộ để an cư lạc nghiệp, các làng Việt hình thành sớm ở An Khê như: An Lũy, Cửu An, Tân Tạo, Tân Lai... đều lập đình. Đình làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng - hành chính trong làng xã, là biểu tượng của tính cộng đồng trong việc nối kết các thành viên trong làng và kết nối con người với thế giới siêu nhiên. Ngôi đình đầu tiên được ghi nhận trên đất An Khê là đình An Lũy. Ban đầu, đình được cất bằng tranh, tre, nứa, lá, tọa lạc trên một cánh rừng rộng và bằng phẳng, hướng về phía tây nam. Dưới thời vua Gia Long, đình bị ra lệnh triệt hạ, sau đó mới được xây dựng lại trên nền móng cũ với mái lợp ngói vảy. Khi thực dân Pháp đến, đình An Lũy bị đốt phá nên phải di dời những gì có thể về 20 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên An Khê trường. Đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân làng mới có dịp về sửa sang lại đình. Để lại diện mạo như ngày nay, đình An Lũy đã trải qua nhiều lần trùng tu. Hiện tại, đình được làm theo lối tiền đường hậu tẩm. Ngôi tiền đường có ba gian hai chái, hậu tẩm có một gian hai chái, hội đủ sáu vảy kèo, tám cây quyết, tám cây đấm và bốn mươi cây cột. Mái ngói vảy, nóc đúc “lưỡng long tranh châu”, nền và sân lát gạch Bát Tràng...7 Đình Tân Lai ban đầu chỉ là một nhà tre nhỏ, sau đó mới được tu bổ, xây cất. Đây là một trong những ngôi đình còn giữ được những nét cổ kính của đình làng ở vùng An Khê với một tòa chánh điện có diện tích 7 m x 5 m; phía trước có bình phong, trụ biểu và cổng tam quan, bên hữu là dãy nhà cúng âm hồn; bên tả là nhà thờ Tiền hiền và Hậu hiền. Đình tọa lạc tại thôn An Điền Bắc thuộc xã Cửu An được xây dựng trên một quả đồi. Thần chính được thờ ở đây là Bổn Cảnh Thành Hoàng. Bản văn tế tại đình còn có danh sách 30 vị thần khác mà trong đó có vị thần vốn được thờ ở Nghệ An như Cao Các, Bạch Mã. Thờ trong đình có vị thần núi, sông, biển; có vị là Ngũ hành Âm Dương; có vị là Tiền hiền như Nguyễn Tiến Chính; hay có vị vốn là người có nhiều của cải đóng góp cho làng.8 Hầu hết những ngôi đình được xây dựng sớm ở An Khê đều được nhà Nguyễn ban sắc phong thần từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trang phục của người Việt trên vùng đất mới đến thập niên 30 của thế kỷ XX vẫn mang đậm nét quê hương: “Người Huế vẫn ăn bận theo lối Huế: đàn bà thường bận áo mùi, quần trắng, tóc vấn, đội nón Kinh. Người Bình Định thì mặc áo quần lãnh hay vải thâm, tóc búi, bịt khăn xéo, cột múi ra trước trán hay sau ót, đội nón Gò Găng”.9 Người Việt khi lên sống ở An Khê vẫn giữ thói quen dùng nước giếng chứ không dùng nước suối, nước giọt như đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ. Ở Cửu An, thị xã An Khê, hiện vẫn còn một chiếc giếng cổ gọi là giếng Đình Làng. Đó là giếng tròn có đường kính đến 3 m, được xây bằng bọng gốm. Thời kỳ đầu, người Việt ở An Khê sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Trong đó, việc khai phá để lập điền (ruộng), trồng trọt các loại cây lương thực, thực phẩm được coi trọng. Lúa được trồng 2 vụ/năm; ngoài ra, trong vườn còn trồng những loại rau ăn quanh năm như rau lang, rau bí, ớt, bồ ngót; gia súc thường nuôi có lợn, gà, trâu, bò theo lối chuồng trại và chăn thả. Nét khác biệt của vùng An Khê là nghề nuôi ngựa rất phát triển để phục vụ việc săn bắt, thồ hàng. Sống trong điều kiện tự cung tự cấp, các nghề thủ công truyền thống của An Khê cũng phát triển trong chừng mực đáp ứng các nhu cầu của người dân trong vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số nghề đã tạo ra được sản phẩm để trao đổi. Một số nghề thủ công điển hình trong vùng có thể kế đến như: Nghề làm gốm, tuy không thật phổ biến, nhưng trong mỗi khu vực cũng có những lò gốm nổi tiếng. Ở Cửu Nhà cổ của cụ Mười Chương. 21Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên cHÚ THÍcH 1 Cụ Nguyễn Thảo cho biết, cây bền thực ra là cây cầy. Ban đầu, người Kinh mới lên lập xóm, thấy đây là cây cổ thụ, sống lâu nên gọi nó là cây bền, theo đó, gò đồi có cây này cũng được gọi là gò Cây Bền. Đến khoảng những năm 90 của thế kỷ trước, cây này vẫn còn, thân cây khoảng 3 người ôm, có bọng ở giữa. Sau đó, do những người đi bắt tắc kè đốt bọng cây mới làm cho cây bị chết. 2 Theo cụ Nguyễn Thảo, sinh năm 1930, hiện ở thôn An Điền Bắc 1. Cụ cũng cho biết, cụ là đời thứ tư sống ở Cửu An. 3 Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Mọi Kon Tum, (Huế, 1937), 13. 4 Phía bắc gọi là “buộc dứng”. 5 Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê - Tỉnh Gia Lai (Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên), Lịch sử truyền thống cách mạng xã Cửu An (1945-2015), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2015), 33-36. 6 Tham khảo: Hồng Thương, Nhà xưa trên đất An Khê, Báo Gia Lai online. Nguồn: channel/721/201504/nha-xua-tren-dat-an-khe-2382141/ 7 Quốc Thành, Trầm tích Tây Sơn Thượng, (Hà Nội: Văn hóa hông tin, 2012), 253, 254. 8 Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê, Lịch sử Đảng bộ thị xã An Khê (1945 - 2005), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia), 45. 9 Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Mọi Kon Tum, (Huế, 1937), 12; hay Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Người Bahnar ở Kom Tum, (Hà Nội: Tri thức, 2011), 144. TÀI LIỆU THaM KHẢo 1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê - Tỉnh Gia Lai (Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên). 2015. Lịch sử truyền thống cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015). Hà Nội: Chính trị Quốc gia. 2. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê. Lịch sử Đảng bộ thị xã An Khê (1945 - 2005). Hà Nội: Chính trị Quốc gia. 3. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi. 1937. Mọi Kon Tum. Huế. 12; Hay Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi. 2011. Người Bahnar ở Kom Tum. Hà Nội: Tri thức. 4. Phan Đại Doãn. 1988. Ấp Tây Sơn nhì trong Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Tập 1: Trên đất Nghĩa Bình. Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình xuất bản. 5. Quốc Thành. 2012. Trầm tích Tây Sơn Thượng. Hà Nội: Văn hóa Thông tin. 6. Hồng Thương. Nhà xưa trên đất An Khê. Báo Gia Lai Online. Nguồn: 201504/nha-xua-tren-dat-an-khe-2382141/ An, khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lò gốm lâu đời nhất trong vùng là lò gốm của gia đình ông Nguyễn Ảnh ở thôn An Điền Nam 1; Lò gốm của hộ ông Phan Gia, nay ở thôn An Điền Nam 2. Ông Phan Gia học được nghề này từ cha vợ ở Bình Định. Sản phẩm chủ yếu của nghề gốm trong thời kỳ đầu người Việt có mặt ở An Khê là các loại vật dụng phục vụ sinh hoạt của con người như: gạch, ngói, nồi đất các loại... Nghề mộc, nghề hồ chủ yếu phục vụ xây dựng nhà ở cho nhân dân hoặc xây dựng các công trình nhỏ. Nghề đan lát chủ yếu tạo ra các đồ gia dụng như rổ, rá, thúng mủng, rổ sấy bằng tre, hiện còn lẻ tẻ ở một số hộ gia đình. Nghề rèn: chủ yếu làm các dụng cụ cầm tay. Do ở trong khu vực tiếp giáp với tỉnh Bình Định, nghề làm bánh tráng (bánh đa) cũng rất phổ biến ở An Khê. Hoạt động thương mại: ban đầu chủ yếu là trao đổi hàng hóa với đồng bào các dân tộc tại chỗ và giao lưu mua bán với các tỉnh đồng bằng. Tình hình này được phản ánh qua câu ca: Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên. Sống với núi rừng, việc săn bẫy thú và thu hái lâm sản (mật ong, măng, nấm) đã góp phần quan trọng vào việc cải thiện bữa ăn hàng ngày và trao đổi để có thêm thu nhập phổ biến trong nhân dân. Rời làng quê cũ lên với vùng đất mới, người Việt đã mang đến An Khê rất nhiều món ăn đặc trưng của các vùng miền khác nhau. Nếu như nguồn thực phẩm chính nuôi sống những cư dân vùng biển ở làng quê cũ là cá và những món ăn được chế biến từ cá, thì khi lên đây nguồn thức ăn chính lại là những món ăn được chế biến từ thịt. Đó là thành quả của quá trình săn bắt và chăn nuôi mà có. Như vậy là, hơn ba thế kỷ qua, bên cạnh việc người Việt ở An Khê đã chọn lọc để bảo tồn và lưu giữ nhiều phong tục, tập quán, giá trị văn hóa từ mảnh đất quê hương nơi họ ra đi, bộ phận cư dân này cũng đồng thời tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn hóa của cộng đồng dân cư tại chỗ. Quá trình tiếp biến trao đổi văn hóa này một mặt giúp cho cộng đồng dân cư tại chỗ học hỏi được những nét tiến bộ trong văn hóa người Việt, nhưng đồng thời cũng làm cho cộng đồng người Việt ở An Khê hình thành nên những nét độc đáo riêng trong văn hóa truyền thống của mình. N.T.K.V.