Lịch sử Myanmar

Chế độ phong kiến ở Miến Điện được hình thành từ rất sớm. Các tài liệu lịch sử và khỏa cổ học của Miến Điện đã chứng minh, chính những nhóm dân tộc di cư đến Miến Điện từ các vùng, miền khác nhau đã lập nên vương triều phong kiến rực rỡ và có vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành đất nước Miến Điện. Đó là các tộc người Mon, Miến, Pyu, Shan, và Rakhine.

doc27 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2150 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử Myanmar, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử Myanmar THỜI KỲ PHONG KIẾN MIẾN ĐIỆN Chế độ phong kiến ở Miến Điện được hình thành từ rất sớm. Các tài liệu lịch sử và khỏa cổ học của Miến Điện đã chứng minh, chính những nhóm dân tộc di cư đến Miến Điện từ các vùng, miền khác nhau đã lập nên vương triều phong kiến rực rỡ và có vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành đất nước Miến Điện. Đó là các tộc người Mon, Miến, Pyu, Shan, và Rakhine. Vào khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, người Mon từ những vùng đất ngần phía Thái Lan và Campuchia ngày nay đã tiến vào Miến Điện, di cư xuống vùng đồng bằng Ayeyarwady lạp nên vương quốc Thanlwin và Sittang, trồng trọt và bán gạo, gỗ teak, khoảng sản, ngà voi sang Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông và Đông Dương. Họ là những người đầu tiên tiếp xúc với đạo Phật. Thế kỷ I trước Công nguyên, một số bộ tộc Tạng – Miến trong đó có người Pyu và những bộ tộc liên minh với họ, rời khỏi quê hương ở sườn đông nam cao nguyên Tây Tạng di cư về phương Nam, tiến vào thung lũng thượng nguồn sông Ayeyarwady lập nên các quốc gia phong kiến ở miền Trung Miến Điện như Beikthano, Hanlin, Sri Ksetra (Thayekhittaya). Các triều đại của người Pyu phát triển rực rỡ trong khỏng 400 năm. Tuy nhiên, đến các thế kỷ sau thì quốc gia này bị biến mất. Một số thử thách cho rằng, họ đã bị người Mon hoạc những tộc người xâm nhập từ đại lục Trung Quốc thôn tính. Cũng giống như người Mon, người Pyu rất sùng bái Phật giáo Tiếu thừa. Các tác phẩm nghệ thuật của người Miến hiện nay ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của người Pyu xưa kia. Vào thế kỷ VIII-IX, người Miến từ phía đông dãy Himalaya đến thay thế người Pyu ở vùng Trung Miến Điện và lập nên vương quốc riêng của mình ở đây. Ban đầu, họ chọn Tagaung ở phía Bắc Mandalay làm nơi xây dựng gia, trước khi chuyển đến Bagan vào năm 849. Vào thế kỷ XII, người Shan, hay còn gọi là người Tai, từ Vân Nam – Trung Quốc tiến vào Đông Bắc Miến Điện và lập nên quốc gia riêng của mình ở khu vực Đông Bắc Miến Điện. Nhiều tài liệu sử học Mianma cho thấy, người Rakhine (Arakanese) đã có quốc gia riêng ở Miến Điện và lập nên quốc gia riêng của mình ở khu vực Đông Bắc Miến Điện. Nhiều tài liệu sử học Mianma cho thấy, người Rakhine(Arakanese) đã có quốc gia riêng ở Miến Điện vào thế kỷ VI. Sự hiện diện chính thức và toàn iện của quốc gia người Rakhine ở Miến Điện vào thế kỷ XV, khi vị vua theo đạo Phật của họ đặt kinh đôtại Mrauk U và lực lượng hải quân của họ nắm giữ phần lớn vịnh Bengal. Có thể nói, những quốc gia của các tộc người kể trên là những triều đại phong kiến đầu tiên của Miến Điện. Những thế kỷ tiếp theo là những khoản thời gian chứng kiến sự phát triển, suy tàn của các vương triều phong kiến Miến Điện. Lịch sử ghi nhận thoief kỳ phong kiến Miến Điện được đánh dấu bởi ba đế chế phong kiến hùng mạnh. Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ nhất – triều đại Bagan (1044-1287) Năm 849, sau khi người Pyu bị người Mon đẩy ra khỏi miền Bắc, người Miến đã thiết lập khu vực định cư riêng của mình và lấy Bagan làm nơi định cư riêng của mình và lấy Bagan làm nơi đóng đô của họ. Suốt hai thế kỷ sau, các triều đại không ngừng tiến hành những cuộc chiến tranh để tranh giành binh quyền. Năm 1044, một thủ lĩnh quân sự người Miến dòng dõi hoàng tộc là Anawrahta, sau khi giết chết Vua Sokkat đãtrở thành vua của Bagan, mở ra mottj thời kỳ huy hoàng trong lịch sử Miến Điện. Trong 33 năm trị vì, Vua Anawrahta đã chinh phục các quốc gia của người Mon, tiến quân sang Nam Chiếu (Vân Nam, Trung Quốc) để biểu dương sức mạnh, quy phục các thủ lĩnh tộc Shan, thống nhất toàn bộ vùng đất ngày nay là Miến Điện, chỉ trừ vùng cao nguyên Shan, một phần Arakan và vùng Taninthayi. Triều đại của Vua Anawrahta được coi là đế quốc Miến Điện thứ nhất – với tư cách một quốc gia thống nhất về chính trị, các vương quốc nhỏ chịu quy phục Miến triều. Không chỉ là vị vua đầu tiên thống nhất được Miến Điện, Vua Anawrahta còn là vị vua đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Miến Điện. Ông đã đưa về Bagan toàn bộ 32 cuốn kinh Theravada, chữ viết của người Mon và ra lệnh xây dựng Bagan thành kinh đô của chùa tháp, thiền viện vĩ đại trong đó có chùa Shwezigon – được coi là hình mẫu của chùa Miến Điện sau này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Bagan nhanh chóng trở thành điểm thu hút các tín đồ đạo Phật ở khu vực Đông Nam Á bởi những công trình chùa tháp đồ sộ, nguy nga. Không thể thôn tính các thế lực cát cứ, thống nhất Miến Điện, Vua Anawrahta còn thực hiện chính sách giao lưu hòa hiếu với các nước láng giềng như Nam Chiếu ở phía bắc, Xri Lanca và Ấn Độ ở phía tây; đồng thời thu phục các thế lực nhỏ yếu bên lãnh thổ Thái Lan. Triều đại Bagan để lại trong lịch sử Miến Đện nhiều kiệt tác về kiến trúc chùa tháp và các công trình thủy lợi lớn như hồ chứa nước Meiktila, hệ thống thủy lợi Kyokxe. Suốt hơn hai thế kỷ tồn tại của triều đại Bagan, kinh tế Miến Điện, nhất là nông nghiệp, rất phát triển. Năm 1077, Vua Anawrahta chết, vương triều này đi vào thời kỳ suy vong. Các vị vua kế nhiệm như Kyaanzitha, Alaungsithu và Htilomoin không những không thực hiện được các tư tưởng lón của Vua Anawrahta mà còn tranh giành quyền bính, chia rẽ nội bộ khiến đế quốc Bagan suy yếu dần. Trong thời kỳ cuối triều đại Bagan, đã xảy ra ba cuộc chiến tranh Miến – Nguyên kéo dài suốt 24 năm (1277-1301) Lần thứ nhất, sau khi triều đình Mông Cổ thôn tính xong Vương quốc Nam Chiếu vùng Vân Nam, Trung Quốc vào năm 1253, đế quốc Nguyên Mông đòi triều đình Miến Điện phải cống nạp. Năm 1273, sứ giả Nguyên Mông lá Khất Giác Thoát Nhân đến chiêu phục Miến Điện với thái độ ngạo mạn và bị Vua Miến Điện Naratgugapate từ chối. Tháng 3-1277, quân Nguyên từ Vân Nam, Trung Quốc do tướng Hốt Đô dẫn đầu tiến vào lãnh thổ Miến Điện. Các cuộc xung đột ác liệt ở khu vực biên giới diễn ra khiến quân đội hai bên đều bị thiệt hại nặng. Quân Nguyên buộc phải rút lui. Lần thứ hai, năm 1282, Vua Nguyên là Kublai Khan (Hốt Tất Liệu) cử đoàn sứ giả 10 người cùng đoàn hộ tống hùng hậu đến kinh đô Bagan đòi triều đình Miến Điện cống nạp. Vì quá ngạo mạn, cả đoàn sứ thàn nhà Nguyên bị vua Miến Điện Naratgugapate ra lệnh giết hết. Sự kiện này khiến Hốt Tất Liệt nổi giận, quyết tâm báo thù. Mùa thu năm 1283, Hốt Tất Liệu đều một đạo quân lớn từ Vân Nam, do tướng Tương Ngô Hợp Nhi chỉ huy, tiến sang trừng phạt Miến Điện. Chiến sự diến ra quyết liệt ở phòng tuyến sông Bhamo, phía Bắc Miến Điện. Trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên, quân Miến Điện phải rú lui, nội bộ hoàng cung Miến Điện bất hòa chia rẽ. Quân Nguyên tiến sát đến kinh đô Bagan. Năm 1287, vương triều Miến Điện không thể đứng vững trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên Mông. Bagan thất thủ, đế quốc phong kiến Miến Điện lần thứ nhất bị diệt vong. Triều đình Nguyên Mông tuyên bố vùng lãnh thổ phía Bắc  và miền Trung của Miến Điện là hai tỉnh của đế quốc Nguyên Mông trên đất Miến Điện. Các vị vua người Miến tiếp theo đều cam chịu làm chư hầu của triều đình nhà Nguyên ở Bắc Kinh. Sau khi tàn phá Bagan, quân Nguyên Mông rút về phía Bắc Miến Điện, đất nước Miến Điện rơi vào thời kỳ hỗn loạn. Mười năm sau, năm 1297, “ba anh em người Shan” (bố là người Shan, mẹ là người Miến) do Axamkhaya làm thủ lĩnh, nổi lên tập hợp dân chúng khỏi nghĩa, kiểm soát miền trung Miến Điện chống lại sự đô hộ của quân Nguyên Mông. Lực lượng khởi nghĩa của “ba anh em người Shan” không ngừng lớn mạnh, đã đánh đuổi quân Nguyên đến ngần biên giới Vân Nam. Lần thứ ba, đầu năm 1301, triều đình Nguyên cử tướng Mang Ngột Đô Lỗ Mê Thất dẫn 12000 quân sang Miến Điện dẹp loạn, nhưng bị lực lượng quân đội Miến Điện do Axamkhaya lãnh đạo chống trả quyết liệt, quân Nguyên Mông bị thương vong nhiều vì chiến tranh và bệnh tật. Tháng 3-1301, Mang Ngột Đô Lỗ Me Thất buộc phải xin hòa để rút quân về Trung Quốc, chấm dứt cuộc chiến tranh Miến – Nguyên. Sau khi thất bại trở về nước, các tướng Nguyên Mông bị Hốt Tất Liệt trừng trị với nhiều hình phạt khác nhau, kể cả tử hình Ba thế kỷ tiếp theo là thời kỳ Miến Điện rơi vào tình trạng phân tranh bất hòa, chia rẽ. Tranh thủ thời cơ sụp đỗ của đế chế bagan , người Mon dưới sự lãnh đạo của Vua Dhammazedi đã di chuyển xuống miền Nam và lập ra vương quốc Hanthawady tại Bago, năm 1472. Vương triều này tiêp tục làm sống lại đạo Phật với việc xây dựng các chùa tháp ở kinh đô và mở rộng xây dựng chùa Shwe Dagon ởYangon. Dưới thời cai trị của các vua người Mon, quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây cũng bắt đầu được chú ý. Người Mon chính là những người mở đường cho quan hệ với Phương Tây sau này. Trong khi đó, người Shan cũng tách khỏi đế quốc Miến Điện, nắm quyền kiểm soát ở phía bắc, thành lập quốc gia Inwa năm 1364. Người Rakhine cũng lập quốc gia riêng của mình tại vùng phía tây Miến Điện. Những người Miến còn lại rút về Tangoo bên bờ sông Sittang chờ đợi cơ hội tái thống nhất Miến Điện. Đến đầu thế kỷ XVI, trên lãnh thổ Miến Điện hình thành bốn trung tâm quyền lực mang đậm chất chủng tộc: phía tây là quốc gia Inwa của người Shan; phía nam là quốc gia Bago của người Mon và phía đông là quốc gia Toungoo của người Miến. Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ hai – triều đại Toungoo (1551-1752) Sau hơn ba thế kỷ bị phân chia thành những quốc gia nhỏ lẻ, đến thế kỷ XVI, vương triều Toungoo tiến hành nhiều cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi và thống nhất đất nước. Năm 1541, người Miến, dưới sự lãnh đạo của vua Tabinshwehti – vị vua trẻ tài giỏi – lợi dụng cơ hội từ những cuộc chiến liên miên giữa người Shan và người Mon, đã tấn công chiếm đóng Inwa – kinh đô của người Shan. Sau đó, tiến hành các cuộc chinh phạt thành công ở phía nam, bắt vua người Mon và chuyển thủ đo về Bago. Tháng 10-1548, Vua Tabinshwehti chỉ huy chiến dịch tấn công Thái Lan (lúc đó gọi là Ayutthaya) giành lại giải đất cực nam là Taninthayi, tuy bắt được con trai vua Thái nhưng quân Miến bị tổn thất nặng nề, năm 1549 phải rút về nước. Năm 1550, Vua Tabinshwehti chết, vương quốc Toungoo đứng trước nguy cơ tan rã trước sự nổi dậy cát cứ của người Mon và người Shan. Cũng năm đó, Bayinnaung, em rể của vua Tabinshwehti, đồng thời cũng là người kế vị, lên ngôi vua tiếp tục sự nghiệp tái thống nhất Miến Điện. Sử sách Miến Điện ghi nhận, nếu Vua Tabinshwehti là vị vua có những hoài bão đẹp thì vua Bayinnaung là người thực hiện những hoài bão đó. Chỉ trong hai năm, Vua Bayinnaung đã đoạt lại các vùng đất bị cát cứ rồi tấn công lên phía bắc, sang phía tây, phía đông, chiếm lại Inwa, chinh phục các quốc gia của người Shan ở phía bắc. Năm 1557, giành lại giải đất Taninthayi từ tay người Thái. Uy danh của Vương quốc Toungoo chấn động các nước láng giềng. Trước sức mạnh uy hiếp của triều đại Tangoo, năm 1559, Vua Lào Xettarirat bỏ qua mối thù của Thái Lan, chủ động liên kết với Thái Lan để chống lại Bayinnaung. Năm 1563, Vua Bayinnaung trực tiếp đưa quân vượt sông Xittaung tấn công Thái Lan. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân đội của Bayinnaung đáng chiếm Chiang Mai và chiếm được kinh đô Ayuthaya của người Thái, bắt sống Vua Agiyuthagia cùng toàn bộ triều đình Thái và nhiều tu binh, thợ thủ công, vàng bạc,.. đưa về Miến Đện. Năm 1567, Vua Thái Lan Ayutthaya xin phép vua Bayinnaung về nước thăm các thánh đường Phật giáo, sau đó phát động dân chúng Thái khởi nghĩa chống lại sự cai trị của người Miến. Vua Baynnaung, tiến hành cuộc viễn chinh lần thứ hai sang Thái, chỉ trong 10 tháng lại chinh phục được Thái. Năm 1569, quân Miến tiến sang Lào nhưng bị thất bại. Năm năm sau (1574), Vua Bayinnaung mở rộng cuộc xâm chiếm lần thứ hai và chinh phục được Lào. Một đế quốc rộng lớn nhất khu vực Đông Nam Á được hình thành. Bayinnaung tự xưng là “vua của các vua”. Miến Điện bước vào thời kỳ rực rỡ lần thứ hai. Các quốc gia khác ở vùng Miến Điện – Trung Quốc và vùng Manipur (nay thuộc Ấn Độ), đều phải triều cống Vua Miến Điện. Trong thời kỳ này, việc buôn bán với các nước láng giềng được phát triển mạnh. Pegu trở thành một hải cảng quan trọng cho các thương nhân đi đến miền Bắc Miến Điện và sang Trung Quốc theo đường sông Ayeyarwady. Những hải cảng quan trọng  ở vùng đồng bằng Miến Điện như Syriam, Martaban và Bassein cũng là điểm dừng chân thuận tiện cho các lái buôn đến từ vùng Đông Nam Á. Người nước ngoài nhất là người Arap và Bồ Đào Nha là những người hoạt động hăng hái nhất trong giao lưu buon bán Đông – Tây. Các công ty buôn bán của Anh, Pháp và Đức được thành lập tại Miến Điện vào thế kỷ XVII. Tuy nhiên, cũng giống như triều đại Anwrahta, đế quốc Miến Diện lần thứ hai cũng đi vào thời kỳ suy tàn sau khi Vua Bayinnaung chết 1581. Các vương triều sau không đủ sức để duy trì quyền lực và bảo vệ lãnh thổ. Những cuộc chiến giữa các sắc tộc lại nổi lên. Năm 1636, kinh đô của người Miến buộc phải chuyển về Inwa trước các cuộc tấn công của người Mon. Mọi giao lưu với bên ngoài đều bị đình trệ. Đế chế phong kiến lần thứ hai của Miến Điện dần dần tan rã. Lịch sử ghi nhận, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII là thời kỳ phát triển rực rỡ của đế chế Miến Điện lần thứ hai, mà đỉnh cao là triều đại Vua Bayinnaung, kinh tế phồn vinh, giao lưu buôn bán tấp nập, đạo Phật được chấn hưng, cương vực lãnh thổ được mở rộng. Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ ba – triều đại Konbaung (1752- 1885) Năm 1752, nhân cơ hội triều đình Tangoo lục đục, suy yếu, được sự giúp sức của người Pháp, người Mon đã chiếm được kinh đô Inwa và cố sức kiểm soát toàn bộ Miến Điện. Tuy nhiên, người Miến không dễ dàng từ bỏ quyền lực. Aung Giaeya – một quan võ tài ba người Miến đánh đuổi người Mon. Một năm sau, năm 1753, ông giành lại được Inwa và xưng vua, lấy hiệu là Alaungpaya – nghĩa là “Phật tương lai”, đặt hoàng cung ở Shwebo. Hoàng thành gọi là Konbaung. Konbaung cũng là tên triều đại. Không những thế, chỉ bảy năm sau, năm 1755, Vua Alaungpaya đã giành lại Payay, chinh phục các quốc gia Shan. Năm 1755, chiếm Dagon (nơi ông đạt tên là Yangon, nghĩa là “kết thúc thù hận”, sau đó chiếm được cả kinh đô Bago của người Mon vào năm 1757. Sau tám năm chinh chiến, Vua Alaungpaya đã thống nhất đất nước và lập ra vương triều Konbaung. Đế chế thứ ba và cũng là đế chế phong kiến cuối cùng của Miến Điện được hình thành. Trước tình hình đó, người Mon chạy sang nương nhờ lãnh thổ Thái rồi tấn công trở lại Miến Điện. Năm 1760, Vua Alaungpaya đã tiến hành chinh phạt, thu hồi dãi đất Taninthayi ròi tiến công vây hãm kinh đô Thái làAyutthaya. Chiến sự đang ác liệt thì vua Alaungpaya bị bênh nặng, phải rút quân và qua đời trên đường trở về, thọ 46 tuổi. Sau khi về đếnYangon, cái chết của vua Alaungpaya mới được công bố khiến người Thái bất ngờ. Ngay khi lên ngôi, Vua Hsinbyushin – con trai Vua Alaungpaya – được mệnh danh là “chúa voi trắng”, rất giỏi dùng binh, tiếp tục sự nghiệp của cha, từ năm 1760 đến 1763 liên tiếp tiến hành các cuộc chinh phạt, mở mang bờ cõi. Năm 1767, Vua Hsinbyushin đã giành lại được dải đất Taninthayi, tấn công Thái phải chuyển kinh đô về Bangkok. Chiến thắng này dã mang về cho Miến Điện nhiều vũ công và vô số tù binh người Thái để phục vụ cho công cuộc chấn hưng Miến Điện. Nhiều nghệ sĩ Thái sau đó đã công hiến tài năng, góp phần phục hưng nền văn học, nghề thuật Miến Điện. Cũng tài giỏi như người anh, Bodawpaya – em trai Hsinbyushin, sau khi lên ngôi vua tiếp tục chinh phục được Rakhine (Arakan). Sự nghiệp thống nhất đất nước được hoàn tất. Trong thời gian cai trị của mình, Vua Bodawpaya đã cải cách hệ thống thuế khóa, thông tin, luật pháp và giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong thời gian trị vì của Vua Hsinbyushin và Vua Bodawpaya, nhà Thanh – Trung Quốc dưới triều đại Càn Long đã bốn lần xâm lược Miến Điện và đều bị quân dân Miến Điện đập tan. Lần thứ nhất, năm 1765, mượn cớ một người Trung Quốc bị giết chết trong bữa tiệc rượu ở Kengtung của Miến Điện (giáp biên giới Trung Quốc), chính quyền nhà Thanh ở Vân Nam sau khi chiêu nạp các thủ lĩnh người Shan từ Miến Điện sang hàng, đã huy động lực lượng quân đội hùng hậu tràn sang lãnh thổ Miến Điện để “hỏi tội” viên thủ lĩnh Kengtung. Quân Thanh bị quân dân Kengtung đánh trả quyết liệt. Ngay sau đó, một cánh quân Miến Điện từ kinh dô Inwa lên phối hợp với quân Kengtung truy đuổi quân Thanh đến tận biên giới Vân Nam. Quân Thanh thua chạy tan tác. Lần thứ hai,  năm 1766, Thái thú Vân Nam là Dương Ứng Cơ đích thân cầm quân vượt biên giới chinh phục các quốc gia Shan, rồi thẳng tiến xuống Kaungton thì bị quân đội Miến chặn lại. Các cánh quân Miến từ Inwa, Bhamo và Kaungton tạo thành thế giọng kìm truy quét quân thanh sang tận lãnh thổ Vân Nam, chiếm luôn tám tiểu vương quốc ở Vân Nam. Quân Thanh bị tổn thất hơn một vạn người, buộc phải cầu hòa. Dương Ứng Cơ bị vua Càn ong xử tội chết. Lần thứ ba, tháng 10- 1767, Thái thú mới của Vân Nam là Minh Thụy – con rể Vua Càn Long – đích thân dẫn một đạo quân lớn vượt biên giới đánh chiếm Hxenuy, đánh lui hai đạo quân Miến tới cứu viện rồi thẳng tiến đến khiêu chiến kinh đô Inwa. Sau ba tháng cầm cự, mùa xuân năm 1768, các đạo quân Miến tống phản công, giết chết 15000 quân Thanh, tướng tiên phong của quân Thanh phải thắt cổ tự tử. Minh Thụy chờ quân cứu viện tới để rút lui, nhưng đội quân ứng cứu từ VânNamsang đã bị quân Miến đánh tan. Đội quân xâm lược của Minh Thụy bị tấn công từ nhiều hướng, tan tác tháo chạy về VânNam. Lần thứ tư, năm 1769, Vua Càn Long lệnh do Thái thú Vân Nam là A Lý Cồn thu thập thêm quân tình nguyện lưu vong người Miến, người Shan, bổ nhiệm phó Hoằng làm chủ tướng, chia thành ba đạo quân tiến đánh Miến Điện bằng đường thủy và đường bộ để rửa hận. Vua Hsinbyushin điều động bốn đạo quân nghênh chiến. Sau các cuộc giao giao tranh ác liệt trên bộ và trên sông, quân Thanh vượt sông đánh chiếm Bhamo, dựng pháo đài lớn Bhamo và Kaungton, dùng thủy quân xuôi thuyền bắn phá Kaungton. Từ kinh đô Inwa, thủy quân Miến ngược dòng tiêu diệt toàn bộ chiến thuyền quân Thanh, ba đạo quân khác của Miến Điện chặn đánh các tuyến liên lạc của địch rồi vây chặt pháo đài quân Thanh. Quân Thanh bị kẹp giữa vòng vây trùng điệp, đói khát và benh tật hoành hành, các tướng quân buộc phải xin hàng. Tống chỉ huy quân Miến là Maha Thihathura chấp thuận, hai bên ký hiệp ước hòa bình với các nội dung: Nhà Thanh giao nộp tất cả các phần tử phản loạn người Miến trốn trong lãnh thổ VânNam - Nhà Thanh cam kết ton trọng chủ quyền của Miến Điện đối với các quốc gia Shan. - Hai nước trao đổi tù binh. - Hai nước duy trì quan hệ buôn bán, trao đổi thường kỳ các sứ đoàn, quà tặng hữu hảo. Quân Thanh chất đống đại bác đốt cho nóng chảy trước mặt quân Miến rồi rút về nước. Trên đường về, nhiều binh lính Thanh chết vì đói khát, kiệt sức và bênh tật. Tuy nhà Thanh sau đó lật lọng, không chịu trao trả tù binh nhưng từ đó không dám nghĩ tới cuộc viễn chinh thứ năm. Vua Hsinbyushin không hài lòng với việc Tướng Maha Thihathura tha bổng quân Thanh, nên ra lệnh đày Tướng Maha Thihathura lên vùng cao nguyên Shan, các chỉ huy khác thì bị phạt đứng phơi nắng ở cổng Tây cung điện suốt ba ngày. Bốn cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh thắng lợi được coi là một trong những trang sử vẻ vang nhất của nhân dân Miến Điện. Tuy nhiên, việc không có sự chỉ định hợp lý người kể thừa ngai vàng cũng như âm mưu thôn tính Miến Điện của thực dân Anh, Pháp là những nguyên nhân gây sự chia rẽ trong triều đại Konbaung, mà hạu quả là sự sụp đỗ của vương triều này vào những năm cuối thế kỷ XIX. Thời kỳ phát triển rực rỡ của xã hội phong kiến Miến Điện chấm dứt. THỜI KỲ ĐẾ QUỐC THỰC DÂN CAI TRỊ Trong quá trình tìm kiếm thị trường thuộc địa, thực dân Anh đã tìm thấy ở Miến Điện những thứ mà người Anh đang cần. Từ cuối thế kỷ XVIII, hoạt động giao thương buôn bán cùng với các đợt truyền đạo tại Miến Điện đã được thực dân Anh tiến hành. Đứng trước nguy cơ bị Pháp thôn tính mảnh đất mầu mỡ này khi Pháp giúp đỡ người Mon đánh chiếm kinh đô của người Miến, thực dân Anh càng quyết tâm thực hiện dã tâm của mình. Chiến tranh Anh – Miến lần thứ nhất (1824-1826) và hiệp ước Yandabo Năm 1819, Anh chiếm xong Xingapo, năm 1820, Anh thôn tính Neepan. Miến Điện trở thành đối tượng xâm lược cảu Anh. Sự căng thẳng giữa vương triều phong kiến Miến Điện với Anh ngày một gia tăng, sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên tại Đảo Xahpuri giữa
Tài liệu liên quan