Giới thiệu
Bài này là một tổng quan về lịch sử Trung Đông. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các
bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận về các vấn đề liên quan
tới việc định nghĩa khu vực xem bài viết về Trung Đông.
Trung Đông Cổ đại
Những nền văn minh đầu tiên trong vùng hiện được gọi là Trung Đông đã được tìm
thấy tại Lưỡng Hà và Ai Cập cổ đại. Người Sumer, Babylon, Assyria, Israel và các dân
tộc khác đã xây dựng lên các nhà nước quan trọng. Từ khoảng năm 500 trước Công
Nguyên trở về sau, nhiều đế chế đã thống trị vùng này, bắt đầu từ Đế chế Ba Tư của nhà
Achaemenes, tiếp đó là Đế chế Macedonia do Alexandros Đại Đế thành lập, và những
vương quốc tiếp sau như Ai Cập thuộc Ptolemaios và vương quốc Seleukos tại Syria.
Thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, sự mở rộng của Cộng hoà La Mã đã sáp nhập toàn
bộ vùng Đông Địa Trung Hải, và dưới thời Đế chế La Mã vùng này được thống nhất
với đa số Châu Âu và Bắc Phi để trở thành một thực thể kinh tế và chính trị duy nhất.
Thực thể này tạo điều kiện cho sự mở rộng của Thiên chúa giáo, và tới thế kỷ thứ 5 toàn
bộ khu vực đều theo đạo Thiên chúa. Sự cai trị của La Mã được kế tục ở thế kỷ thứ 4
Công Nguyên bởi Constantinopolis, dẫn tới sự thành lập một Đế chế Thiên chúa giáo,
nói tiếng Hy Lạp, được các nhà sử học gọi là Đế chế Byzantine (Đông La Mã), cai quản
từ vùng Balkan cho tới Euphrates. Xa hơn nữa về phía đông, Đế chế Ba Tư được những
người Parthia và sau này là nhà Sassanid hồi sinh.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử Trung Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử Trung Đông
Bởi:
Wiki Pedia
Giới thiệu
Bài này là một tổng quan về lịch sử Trung Đông. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các
bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận về các vấn đề liên quan
tới việc định nghĩa khu vực xem bài viết về Trung Đông.
Trung Đông Cổ đại
Những nền văn minh đầu tiên trong vùng hiện được gọi là Trung Đông đã được tìm
thấy tại Lưỡng Hà và Ai Cập cổ đại. Người Sumer, Babylon, Assyria, Israel và các dân
tộc khác đã xây dựng lên các nhà nước quan trọng. Từ khoảng năm 500 trước Công
Nguyên trở về sau, nhiều đế chế đã thống trị vùng này, bắt đầu từ Đế chế Ba Tư của nhà
Achaemenes, tiếp đó là Đế chế Macedonia do Alexandros Đại Đế thành lập, và những
vương quốc tiếp sau như Ai Cập thuộc Ptolemaios và vương quốc Seleukos tại Syria.
Thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, sự mở rộng của Cộng hoà La Mã đã sáp nhập toàn
bộ vùng Đông Địa Trung Hải, và dưới thời Đế chế La Mã vùng này được thống nhất
với đa số Châu Âu và Bắc Phi để trở thành một thực thể kinh tế và chính trị duy nhất.
Thực thể này tạo điều kiện cho sự mở rộng của Thiên chúa giáo, và tới thế kỷ thứ 5 toàn
bộ khu vực đều theo đạo Thiên chúa. Sự cai trị của La Mã được kế tục ở thế kỷ thứ 4
Công Nguyên bởi Constantinopolis, dẫn tới sự thành lập một Đế chế Thiên chúa giáo,
nói tiếng Hy Lạp, được các nhà sử học gọi là Đế chế Byzantine (Đông La Mã), cai quản
từ vùng Balkan cho tới Euphrates. Xa hơn nữa về phía đông, Đế chế Ba Tư được những
người Parthia và sau này là nhà Sassanid hồi sinh.
Trung Đông Ả Rập
Nhờ kết quả của những nỗ lực thống nhất dưới giai đoạn cai trị của La Mã và Đông La
Mã, thực tế không có sự phân biệt giữa cái hiện nay là Châu Âu và cái hiện là Trung
Đông cho tới tận thế kỷ thứ 7 Công Nguyên. Tiểu Á, Syria, Palestine và Ai Cập đều là
những vùng Thiên Chúa giáo và sử dụng tiếng Hy Lạp, chính trị và văn hóa thống nhất
với thế giới Hy Lạp-La Mã ở thời cai trị của Constantinopolis, trong khi Lưỡng Hà (Iraq
hiện đại) hình thành nên một vùng đệm giữa Đông La Mã và Đế chế Ba Tư.
Lịch sử Trung Đông
1/12
Sự kiện quyết định trong việc hình thành Trung Đông với tư cách là một vùng văn hóa
riêng biệt là sự trỗi dậy của Hồi giáo tại Bán đảo Ả Rập - do nhà tiên tri Muhammad sáng
lập. Sau khi Muhammad mất năm 630 người Hồi giáo được trị vì bởi một khalip. Năm
634 quân của khalip bắt đầu tách khỏi Medina. Họ chiếm Palestine năm 636, Lưỡng Hà
năm 637, Syria và Ai Cập năm 640 và Ba Tư năm 642. Đế quốc Đông La Mã đã thành
công trong việc ngăn cản người Ả Rập xâm chiếm Tiểu Á, nơi vẫn còn là vùng Thiên
chúa giáo cho tới khi những người Thổ Nhĩ Kỳ đến đây 400 năm sau. Đa số dân cư trong
những vùng bị người Ả Rập chinh phục chuyển sang theo đạo Hồi chỉ trong vòng hai
thế hệ, tạo nên một biên giới văn hóa thường trực giữa châu Âu và thế giới Hồi giáo.
Dù Đế chế Hồi giáo thống nhất được tạo thành sau những làn sóng chinh phục đầu tiên
của người Ả Rập đã tan vỡ thành hàng loạt các quốc gia và các tiểu vương quốc Hồi
giáo nhỏ hơn từ cuối thế kỷ thứ 9, người Ả Rập vẫn giữ ưu thế tuyệt đối trong vùng giữa
sông Nil và sông Tigris (cũng như tại Bắc Phi và đa phần Tây Ban Nha) trong hơn 400
năm. Tuy nhiên, ở phía đông, Ba Tư nhanh chóng xác nhận sự độc lập của mình, dưới
các triều đại như Tahir, Saffar, và Samani, và sau này cũng đã chấp nhận một hình thức
Hồi giáo, hệ phái Shia, mà Hệ phải Sunni coi là dị giáo. Việc này đã tạo nên một biên
giới thường trực ở phía đông cho thế giới Ả Rập Hồi giáo, dù đạo Hồi tiếp tục mở rộng
về phía đông, tới Ấn Độ và Indonesia.
Trong giai đoạn này thế giới Ả Rập, dưới thời các khalip nhà Omeyyad, nhà Abbas và
nhà Fatima, là trung tâm của các hoạt động văn hóa và kinh tế ở nửa phía tây của Âu Á.
Trong khi Châu Âu tiếp tục tiến hành các cuộc xâm chiếm khiến dân chúng tại đó tụt lùi
trở lại với đời sống kinh tế và tinh thần như ở thời Đế chế La Mã, các thành phố vĩ đại Ả
Rập như Cairo, Alexandria, Basra, Damascus và, trên tất cả, là kinh thành Bagdad huy
hoàng, trở thành nơi có thể đáp ứng đời sống cho một dân số đông đảo, một nền kinh tế
thương mại thịnh vượng và một đời sống văn hóa phong phú. Văn hoá, kiến trúc, y khoa
và khoa học Ả Rập tiến bộ hơn rất nhiều so với tây Âu. Tại tất cả các quốc gia theo Cơ
đốc giáo, chỉ Constantinopolis với quyền lực đang ngày càng giảm sút là có thể so sánh
với thế giới Ả Rập.
Người Thổ Nhĩ Kỳ, các chiến binh Thập tự chinh và người Mông Cổ
Lịch sử Trung Đông
2/12
Lãnh đạo người Kurd Hồi giáo, Saladin đã chiến thắng vẻ vang trước các chiến binh Thập tự
chinh
Sự thống trị của người Ả Rập bỗng chợt kết thúc vào giữa thế kỷ 11 với sự xuất hiện
của người Thổ Seljuk, di cư tới từ những vùng đất quê hương của họ ở Trung Á, họ
chinh phục Ba Tư, Iraq (chiếm Bagdad năm 1055), Syria, Palestine và Hejaz, đánh bại
người Byzantines tại Trận Manzikert và chinh phục Tiểu Á. Ai Cập, khi ấy dưới thời
các khalip nhà Fatima được yên ổn mãi tới năm 1169, khi tới lượt nó cũng rơi vào tay
người Thổ Nhĩ Kỳ. Người Seljuk đã cai trị hầu như cả vùng này trong gần 200 năm sau
đó, nhưng đế chế của họ đã nhanh chóng tan rã thành nhiều vương quốc nhỏ hơn - tiêu
biểu là vương quốc Seljuk ở Rum.
Sự phân rã này của khu vực khiến người Thiên chúa ở phía tây, vốn từ thời tăm tối nhất
của mình ở thế kỷ thứ 7 đã tiến hành một chương trình phục hồi kinh tế và nhân khẩu
rất đáng chú ý, trở lại nắm ưu thế trong vùng. Năm 1095 Giáo hoàng Urban II kêu gọi
giới quý tộc Châu Âu tái chiếm vùng Đất thánh cho Thiên chúa giáo, và vào năm 1099
các hiệp sĩ của cuộc Thập tự chinh thứ nhất đã chiếm Jerusalem. Họ thành lập ra Vương
quốc Jerusalem, tồn tại tới tận năm 1187, khi Saladin tái chiếm thành phố. Các khu thái
ấp thập tự chinh nhỏ hơn tồn tại tới tận năm 1291. Những chiến binh Thập tự chinh đã
không thể thiết lập sự hiện diện thường trực của họ trong vùng, chủ yếu bởi vì họ không
thể thu hút những người nhập cư từ Châu Âu khi cơn bốc đồng cho cuộc Thập tự chinh
ban đầu đã tan biến.
Đầu thế kỷ 13 các sultan nhà Ayyub đã tái chiếm quyền kiểm soát Ai Cập và Syria từ
tay người Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cuộc hồi sinh của người Ả Rập không kéo dài. Một làn
sóng những kẻ xâm lược mới - Đế chế Mông Cổ, tràn qua cả khu vực, cướp bóc Bagdad
năm 1258 và tiến sâu về phía nam tới tận biên giới Ai Cập. Tuy nhiên, người Mông
Cổ không xây dựng nên các đế chế, và tới giữa thế kỷ 14 họ đã rời khỏi vùng này. Khi
Lịch sử Trung Đông
3/12
bừng tỉnh, các sultan nhà Mamluk người Thổ tại Ai Cập đã tái chiếm quyền kiểm soát
Palestine và Syria, trong khi các sultan khác kiểm soát Iraq và Tiểu Á. Người Ả Rập
chỉ có toàn quyền Bán đảo Ả Rập. Sau khi Bagdad rơi vào tay quân Mông của Húc Liệt
Ngột, sultan Ai Cập cho rước một hậu duệ của nhà Abbas về tôn làm khalip ở Cairo.
Thời kỳ Ottoman
Selim I - vị vua chinh phục Trung Đông cho đế quốc Ottoman
Tới đầu thế kỷ 15, đế quốc Ottoman trỗi dậy tại vùng Tây Nam Á. Năm 1453, sultan
Ottoman là Mehmed II mang quân đi đánh Đông La Mã, chiếm được kinh thành
Constantinopolis. Triều Mamluk đã giữ chân được người Ottoman bên ngoài khu vực
Trung Đông trong một thế kỷ, nhưng vào năm 1514 sultan Selim I bắt đầu các cuộc
chinh phục một cách có hệ thống vùng này cho Ottoman. Iraq bị chiếm năm 1515, Syria
năm 1516 và Ai Cập năm 1517, tiêu diệt dòng dõi Mamluk. Sau cuộc chinh phạt Ai Cập
năm 1527 Selim I bắt khalip cuối cùng của triều Abbas phải thoái vị và nhường ngôi
cho ông. Đế quốc Ottoman lần đầu tiên từ thời cai trị của các khalip nhà Abbas từ thế
kỷ thứ 10 đã thống nhất cả vùng, và họ giữ quyền kiểm soát nó trong 400 năm.
Đế chế Ottoman cũng chinh phục Hy Lạp, bán đảo Balkan và đa phần Hungary, lập ra
biên giới mới giữa phía đông và phía tây dịch xa hơn về phía bắc sông Danube. Nhưng
tây Âu mở rộng nhanh chóng, cả về kinh tế, văn hóa và nhân khẩu, với sự thịnh vượng
mới từ châu Mỹ cung cấp cho sự phát triển nhảy vọt tạo lập các nền tảng cho sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản và cách mạng công nghiệp. Tới thế kỷ 17 châu Âu đã vượt
xa thế giới Hồi giáo về của cải, dân số và —quan trọng nhất— công nghệ. Dù cả Thiên
chúa giáo và Hồi giáo đều có thái độ thù địch với sự phát triển công nghệ của chủ nghĩa
Lịch sử Trung Đông
4/12
tư bản, cuộc cải cách Tin Lành đã kìm hãm sức mạnh của Nhà thờ Cơ đốc giáo và cho
phép chủ nghĩa cá nhân được phát triển mạnh mẽ ở Bắc Âu.
Tới năm 1700 Đế chế Ottoman đã bị đẩy khỏi Hungary và cán cân quyền lực giữa hai
phía đã nghiêng hẳn về phương tây. Dù tại một số vùng thuộc Đế chế Ottoman tại Châu
Âu như Albania và Bosnia, có nhiều người đã cải sang Hồi giáo, vùng này về mặt văn
hóa chưa bao giờ bị sáp nhập vào trong thế giới Hồi giáo. Từ năm 1700 đến 1918 người
Ottoman dần lùi bước, và Trung Đông ngày càng rơi vào vùng ảnh hưởng của Châu Âu.
Trong thế kỷ 19 Hy Lạp, Serbia, Romania và Bulgaria giành lại độc lập, và trong các
cuộc chiến tranh Balkan giai đoạn 1912-13 Đế chế Ottoman bị hất khỏi toàn bộ Châu
Âu, ngoại trừ thành phố Constantinopolis và vùng nội địa của nó.
Tới thế kỷ 19 Đế chế Ottoman bị Nga hoàng Nikolai I gọi là "Âu châu bệnh phu", dần
rơi vào tầm kiểm soát tài chính của các nước đế quốc châu Âu. Sự thống trị nhanh chóng
chuyển sang chinh phục. Thực dân Pháp sáp nhập Algérie năm 1830 và Tunisia năm
1878. Đế quốc Anh chiếm Ai Cập năm 1882, dù nó vẫn nằm dưới chủ quyền danh nghĩa
của Ottoman. Người Anh cũng thiết lập sự kiểm soát hiệu quả trên Vịnh Ba Tư, và Pháp
đã mở rộng ảnh hưởng của họ tới Liban và Syria. Năm 1912 Ý chiếm Libya và quần
đảo Dodecanese, ngay ngoài khơi vùng đất trung tâm của Đế chế Ottoman là Tiểu Á.
Đế chế Ottoman quay sang cầu cứu Đế chế Đức bảo vệ họ khỏi các cường quốc phương
tây, nhưng kết quả chỉ là sự lệ thuộc ngày càng tăng về tài chính và cả quân sự vào nước
Đức.
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, giới lãnh đạo Trung Đông đã tìm cách hiện đại hóa
đất nước của mình để cạnh tranh một cách hiệu quả hơn với các cường quốc châu Âu.
Những ông vua có tư tưởng cải cách như Muhammad Ali Pasha tại Ai Cập, sultan Abdul
Hamid II và các tác giả của cuộc cách mạng năm 1906 tại Ba Tư tìm cách áp dụng các
công thức phương tây vào thể chế chính phủ, luật pháp dân sự, giáo dục phi tôn giáo
và phát triển công nghiệp vào đất nước họ. Trên khắp vùng các tuyến đường sắt, đường
thông tin được xây dựng, trường học và trường đại học được mở cửa, một tầng lớp sĩ
quan, luật sư, giáo viên, hành chính viên mới xuất hiện, thách thức các tầng lớp lãnh đạo
truyền thống và các học giả Hồi giáo.
Không may thay, trong tất cả các trường hợp trên, tiền trả cho những cuộc cải cách đều
vay mượn từ phương Tây, và những khoản nợ đã dẫn tới tình trạng phá sản thậm chí là
lệ thuộc hơn nữa vào phương tây, khiến các nhà cải cách mất uy tín. Ví dụ, Ai Cập đã rơi
vào vòng kiểm soát của Anh Quốc vì những kế hoạch đầy tham vọng của Muhammad
Ali và những người kế tục ông đã làm đất nước rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa,
việc phương tây hóa thế giới Hồi giáo đã tạo ra các đội quân chuyên nghiệp, do các sĩ
quan muốn nắm quyền lực cho mình —một vấn đề mang lại tại họa cho Trung Đông từ
đó— lãnh đạo. Cũng có những vấn đề khác tác động đến những nhà cầm quyền mong
muốn cải cách nhất: họ được chuẩn bị cho mọi cuộc cải cách ngoại trừ việc chính họ rời
bỏ quyền lực. Ví dụ, Abdul Hamid II, đã trở nên độc đoán hơn bao giờ hết, khi ông tìm
Lịch sử Trung Đông
5/12
cách áp đặt các cuộc cải cách lên đế chế còn chưa sẵn sàng của mình. Các bộ trưởng cải
cách ở Ba Tư cũng tìm cách áp đặt quá trình hiện đại hóa lên các thần dân, gây ra những
sự chống đối mạnh mẽ.
Những nhà cải cách nhiều tham vọng nhất là nhóm Những người Thổ trẻ (chính thức
được gọi là Ủy ban cho sự Liên minh và Tiến bộ), những người đã lật đổ vua Abdul
Hamid II và lên nắm quyền từ năm 1908. Do hai vị sĩ quan đầy tham vọng là, Ismail
Enver (Enver Pasha) và Ahmed Cemal (Cemal Pasha), cùng một luật sư cấp tiến,
Mehmed Talat (Talat Pasha) lãnh đạo, nhóm Những người Thổ trẻ ban đầu thiết lập một
nền quân chủ lập hiến, nhưng nhanh chóng chuyển thành một hội đồng cầm quyền, với
Talat là Đại Vizia và Enver làm Bộ trưởng Quốc phòng, họ tìm cách áp đặt các chương
trình hiện đại hóa lên toàn bộ Đế chế Ottoman.
Kế hoạch có nhiều sai lầm. Đầu tiên nó bắt buộc sử dụng ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ và tập
trung hóa chính phủ trên những gì cho tới thời điểm đó vẫn là đa ngôn ngữ và một đế
chế trung ương quản lý lỏng lẻo, khiến những vùng sử dụng tiếng Ả Rập trong đế chế
giận giữ và gây ra nhiều vụ nổi dậy của những người Ả rập theo chủ nghĩa yêu nước.
Thứ hai, nó đưa đế chế rơi sâu thêm vào cảnh nợ nần. Và thứ ba, khi Enver Bey thành
lập một liên minh với Đức, mà ông cho là cường quốc có quân đội hiện đại nhất châu
Âu, nó khiến đế chế mất đi sự ủng hộ của Anh, nước đã bảo vệ cho đế quốc Ottoman
chống lại sự xâm lấn của Nga từ thế kỷ 19.
Sự đô hộ của Châu Âu
Mustafa Kemal Atatürk, người sáng lập nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại
Năm 1914 liên minh của Enver Bey với Đức khiến nhóm Những người Thổ trẻ phạm
một bước sai lầm nghiêm trọng khi gia nhập cùng đế quốc Áo-Hung và Đức vào Chiến
tranh thế giới thứ nhất, chống lại Anh và Pháp. Người Anh coi Ottoman là mắt xích yếu
trong liên minh đối thủ, và tập trung vào việc đánh bại họ trước nhất. Khi một cuộc tấn
công trực tiếp tại Gallipoli năm 1915 mang lại thất bại thảm hại cho họ, họ quay sang
Lịch sử Trung Đông
6/12
xúi giục những tổ chức cách mạng bên trong chính Đế chế Ottoman, lợi dụng sự suy
yếu của chủ nghĩa quốc gia Hồi giáo. Những người Ả rập từng nhiều hay ít hài lòng
với thời gian cai trị 400 năm của Ottoman, cho tới khi nhóm Những người Thổ trẻ "Thổ
hoá" họ và thay đổi hệ thống chính phủ truyền thống của họ. Người Anh thành lập một
liên minh với Sherif Hussein ibn Ali, người thừa kế chức vụ cai quản Mecca (và được
những người Hồi giáo tin là con cháu của Nhà tiên tri Muhammad), người đã lãnh đạo
một cuộc Nổi dậy Ả Rập chống lại quyền cai trị của Ottoman, sau khi nhận được lời hứa
sẽ trao cho người Ả rập quyền độc lập.
Nhưng khi Đế chế Ottoman sụp đổ năm 1918, người Ả Rập nhận thấy mình đã bị lừa, và
lừa đến hai lần. Không chỉ vì Anh và Pháp đã ký một hiệp ước mật (Thỏa thuận Sykes-
Picot), để phân chia Trung Đông giữa họ, mà người Anh cũng đã thông qua Tuyên bố
Balfour hứa hẹn ủng hộ cho phong trào phục quốc]] trong việc thành lập một nhà nước
Do Thái tại Palestine, đây là vị trí cũ của Vương quốc Israel nhưng cũng là nơi sinh sống
của đông đảo người Ả rập từ hơn một nghìn năm. Khi Đế chế Ottoman tan rã, người Ả
rập tuyên bố thành lập một nhà nước độc lập tại Damascus, nhưng nhà nước này quá
yếu ớt, cả về quân sự và kinh tế, để chống chọi lâu dài với các cường quốc Châu Âu,
và Anh cùng Pháp nhanh chóng thiết lập quyền kiểm soát và tái sắp xếp khu vực Trung
Đông theo ý muốn của họ.
Syria trở thành một nước bảo hộ của Pháp (với một cái tên mang tính che đậy là một
quốc gia thuộc Liên đoàn các Quốc gia Ủy trị), với những khu vực ven biển theo Thiên
chúa giáo bị tách riêng để trở thành Liban. Iraq và Palestine trở thành các lãnh thổ ủy trị
của Anh, và một trong những con trai của Sherif Hussein, Faisal, được tôn làm vua Iraq.
Palestine bị chia đôi, phần phía đông trở thành Transjordan làm nơi thuộc quyền cai trị
của một người con trai khác của Hussein, Abdullah. Nửa phía tây Palestine được đặt
dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh, và số dân cư Do Thái vốn đã sống ở đó được cho
phép tăng thêm. Đa số bán đảo Ả rập rơi vào tay một đồng minh khác của Anh Quốc,
Ibn Saud, người lập nên vương quốc Ả Rập Saudi năm 1922.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của Đế chế Ottoman đã cho phép Kemal Atatürk lên nắm quyền
tại Thổ Nhĩ Kỳ và tiến hành một trương trình hiện đại hoá, thế tục hóa khác. Ông xóa bỏ
chế độ khalip, giải phóng phụ nữ, khuyến khích trang phục phương Tây và việc sử dụng
tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thay cho tiếng Ả rập, và xóa bỏ quyền phán xử của các tòa án Hồi
giáo. Trên thực tế, Thổ Nhĩ kỳ, đã không còn thuộc quyền quản lý của Thế giới Ả Rập,
quyết định tách khỏi Trung Đông và trở thành một phần của khu vực văn hóa châu Âu.
Từ đó, Thổ Nhĩ Kỳ luôn cho họ là một quốc gia châu Âu chứ không phải là một phần
của Trung Đông.
Một điểm có tính bước ngoặt khác trong lịch sử Trung Đông diễn ra khi dầu mỏ được
phát hiện, đầu tiên là tại Ba Tư năm 1908 và sau này là tại Ả Rập Saudi (năm 1938) và
các quốc gia vùng Vịnh Ba Tư khác, và cả tại Libya và Algérie. Phát hiện mới cho thấy,
Trung Đông, sở hữu lượng dầu mỏ dễ dàng tiếp cận lớn nhất thế giới, nguồn tài nguyên
Lịch sử Trung Đông
7/12
quan trọng nhất cho thế giới công nghiệp thế kỷ 20. Dù các công ty dầu khí phương tây
khai thác và xuất khẩu hầu như toàn bộ số nhiên liệu cho nền công nghiệp ô tô đang
phát triển nhanh chóng cũng như các ngành công nghiệp phương tây khác, các vị vua
và tiểu vương của các quốc gia dầu mỏ trở nên đặc biệt giầu có, cho phép họ củng cố
quyền lực vvà bảo đảm được sự hài hòa trong sự hiện diện của phương Tây trong vùng.
Sự giàu có từ dầu mỏ cũng có ảnh hưởng trên việc làm mất tác dụng những phong trào
cải cách kinh tế, chính trị hay xã hội từng xuất hiện tại thế giới Ả rập dưới sự ảnh hưởng
của cuộc cách mạng Kemal tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong thập niên 1920 và 1930 Iraq, Syria và Ai Cập bắt đầu có những bước tiến tới độc
lập, dù Anh và Pháp chưa chính thức ra đi cho tới khi họ bắt buộc phải làm như vậy sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong vùng Palestine các lực lượng Ả rập theo chủ nghĩa
quốc gia và Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (Zion) xung đột lẫn nhau tạo nên một tình
hình rắc rối mà Anh Quốc không thể giải quyết cũng như không thể thoát khỏi. Sự nổi
lên nắm quyền của Adolf Hitler tại Đức đã tạo ra một tình thế khẩn trương mới đòi hỏi
những người Do Thái phải thành lập một nhà nước Do Thái tại Palestine, và những ý
định rõ ràng của những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái khiến sự phản đối của
người Ả rập ngày càng gia tăng. (Xem thêm Xung đột Ả rập-Israel, Lịch sử cuộc xung
đột Ả rập-Israel, Lịch sử Palestine và Lịch sử Israel.)
Cuộc đấu tranh này dẫn tới kế hoạch phân chia Palestine của Liên hiệp quốc năm 1947
để lập ra một nhà nước Do Thái và một nhà nước Ả rập tại vùng đất hẹp giữa Sông
Jordan và Biển Địa Trung Hải. Các nhà lãnh đạo Ả rập phản đối kế hoạch này, trong khi
các lãnh đạo Do Thái chấp nhận nó. Khi thời kỳ Ủy trị của Anh kết thúc, giới lãnh đạo
chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã tuyên bố thành lập Nhà nước Israel ngày 14 tháng 5,
1948. Trong cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, quân đội Ai Cập, Syria, Transjordan,
Liban, Iraq và Ả rập Saudi đã can thiệp và bị Israel đánh bại. Khoảng 800.000 người
Palestine đã bở chạy khỏi các khu vực bị Israel sáp nhập và trở thành những người tị nạn
tại các nước láng giềng, vì thế đã tạo ra "Vấn đề Palestine" khiến khu vực từ đó luôn ở
trong tình trạng bất an. Gần hai phần ba trong số 758.000—866.000 người Do Thái bị
trục xuất hay bỏ chạy khỏi các vùng đất Ả rập sau năm 1948 được nhà nước Israel tiếp
nhận và trao quyền công dân.
Một khu vực xung đột
Việc các cường quốc Châu Âu không còn trực tiếp quản lý khu vực, sự thành lập của
nhà nước Israel, và vai trò ngày càng quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí, đã
đánh dấu sự hình thành của Trung Đông hiện đại. Những phát triển đó dẫn tới sự hiện
diện ngày càng tăng của Hoa Kỳ trong các vấn đề Trung Đông. Hoa Kỳ là nước duy nhất
đảm bảo sự ổn định của khu vực, và từ thập niên 1950 là lực lượng chủ chốt trong ngành
công nghiệp dầu khí. Khi những phong trào cách mạng cộng hòa giúp những người có
tư tưởng chống phương tây cực đoan lên cầm quyền ở Ai Cập năm 1954, tại Syria năm
1963, tại Iraq năm 1968 và tại Libya năm 1969, Liên bang Xô viết, đang tìm cách mở
Lịch sử Trung Đông
8/12
ra một vũ trường mới của cuộc Chiến tranh Lạnh ở Trung Đông, liên minh với các nhà
lãnh đạo Ả rập như Gamal Abdel Nasser tại Ai Cập và Saddam Hussein tại Iraq. Các
chế độ đó được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng nhờ những lời hứa tiêu diệt nhà nước
Israel, đánh bại Hoa Kỳ và các nước "đế quốc phương Tây" mang lại sự thịnh vượng
cho nhân dân Ả rập