Lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo (từ 4 đến 6 tuổi)

1. Mở đầu Giai đoạn từ khi mới sinh ra cho đến khi bước vào lớp Một (từ 0 tuổi đến 6 tuổi) là giai đoạn vô cùng quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bé được phát triển toàn diện khi nhận được sự chăm sóc và giáo dục hài hòa giữa gia đình và nhà trường. Một trong các yếu tố quan trọng có tính chất quyết định đối với sự phát triển toàn diện của trẻ là giáo dục ngôn ngữ. Tìm hiểu lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo (từ 4 đến 6 tuổi) sẽ góp phần vào việc tìm biện pháp khắc phục, phương pháp giáo dục giúp trẻ tránh được các lỗi phát âm không đáng có, góp phần trang bị cho trẻ những hành trang cần thiết khi bước chân vào lớp Một. Việc tìm hiểu sự tiếp nhận ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo là một vấn đề hết sức quan trọng, do đó ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn tác giả Lưu Thị Lan (1994) cho ta biết được sự phát triển về số lượng từ không chỉ phụ thuộc vào tháng tuổi, năm tuổi của trẻ, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như trình độ văn hóa, nghề nghiệp của bố mẹ và môi trường ngôn ngữ bao xung quanh trẻ sống. Nguyễn Thị Phương Nga (2006), với Giáo trình phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non đã đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đặng Thu Quỳnh (2006), với Bài soạn hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 tuổi làm quen với chữ cái giúp ta có thêm một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Bên cạnh đó còn có những đóng góp của Nguyễn Xuân Thức (1995) về Tính tích cực giao tiếp và phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi Và gần đây nhất là những khóa luận văn của các bạn sinh viên khoa giáo dục mầm non của các trường trên toàn quốc cũng cung cấp những cứ liệu bổ ích về ngôn ngữ của trẻ mầm non và biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo (từ 4 đến 6 tuổi), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 90 LỖI PHÁT ÂM PHỤ ÂM ĐẦU CỦA TRẺ MẪU GIÁO (TỪ 4 ĐẾN 6 TUỔI) Lê Thị Hồng Nhung Sinh viên năm 4, Khoa GDMN GVHD: TS. Nguyễn Thị Ly Kha 1. Mở đầu Giai đoạn từ khi mới sinh ra cho đến khi bước vào lớp Một (từ 0 tuổi đến 6 tuổi) là giai đoạn vô cùng quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bé được phát triển toàn diện khi nhận được sự chăm sóc và giáo dục hài hòa giữa gia đình và nhà trường. Một trong các yếu tố quan trọng có tính chất quyết định đối với sự phát triển toàn diện của trẻ là giáo dục ngôn ngữ. Tìm hiểu lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo (từ 4 đến 6 tuổi) sẽ góp phần vào việc tìm biện pháp khắc phục, phương pháp giáo dục giúp trẻ tránh được các lỗi phát âm không đáng có, góp phần trang bị cho trẻ những hành trang cần thiết khi bước chân vào lớp Một. Việc tìm hiểu sự tiếp nhận ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo là một vấn đề hết sức quan trọng, do đó ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn tác giả Lưu Thị Lan (1994) cho ta biết được sự phát triển về số lượng từ không chỉ phụ thuộc vào tháng tuổi, năm tuổi của trẻ, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như trình độ văn hóa, nghề nghiệp của bố mẹ và môi trường ngôn ngữ bao xung quanh trẻ sống. Nguyễn Thị Phương Nga (2006), với Giáo trình phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non đã đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đặng Thu Quỳnh (2006), với Bài soạn hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 tuổi làm quen với chữ cái giúp ta có thêm một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Bên cạnh đó còn có những đóng góp của Nguyễn Xuân Thức (1995) về Tính tích cực giao tiếp và phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi Và gần đây nhất là những khóa luận văn của các bạn sinh viên khoa giáo dục mầm non của các trường trên toàn quốc cũng cung cấp những cứ liệu bổ ích về ngôn ngữ của trẻ mầm non và biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Tìm hiểu thực trạng lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo lớn (4 – 6 tuổi), người nghiên cứu nhằm góp phần mô tả bức tranh về thực trạng phát âm âm đầu của trẻ mẫu giáo lớn trên cơ sở đó tìm hiểu một số biện pháp khắc phục Năm học 2008 – 2009 91 tình trạng phát âm sai của trẻ. Việc tìm hiểu lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ mẫu giáo lớn của chúng tôi xuất phát từ giả thiết khoa học: trẻ có bộ máy phát âm bình thường, tâm sinh lý bình thường thì sẽ có khả năng phát âm được tất cả các âm trong hệ thống âm của ngôn ngữ đó. Do điều kiện thời gian có hạn và do giới hạn của phạm vi một tìm hiểu nhỏ, đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn trong việc khảo sát khả năng phát âm phụ âm đầu của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo, với đối tượng là 9 trẻ sau: Họ và tên Ngày, tháng, năm sinh Chỗ ở hiện nay Nguyễn Quốc A. 16/07/2004 Biên Hoà – Đồng Nai Trần Bảo Gia L. 10/05/2004 Biên Hoà – Đồng Nai Nguyễn Trần Khánh D. 21/07/2004 Biên Hoà – Đồng Nai Vũ Thị Kiều Ph. 27/10/2004 Trảng Bom – Đồng Nai Lê Thuỳ D. 08/09/2003 TP. Hồ Chí Minh Tạ Ngọc T. 07/12/2003 TP. Hồ Chí Minh Phạm Thanh N. 19/08/2003 Trảng Bom – Đồng Nai Vũ Quốc B. 28/11/2002 Trảng Bom – Đồng Nai Phạm Lê Hoàng Đức T. 03/04/2002 TP. Hồ Chí Minh Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tài liệu, giáo trình, các loại sách giáo khoa viết về trẻ mẫu giáo; khảo sát và đánh giá kết quả dựa vào những dữ kiện thu thập được qua việc trực tiếp tiếp xúc với trẻ. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như: điều tra, phỏng vấn, thống kê, phân tích, so sánh các số liệu thu thập; trực tiếp tiếp xúc với đối tượng để chụp ảnh, quay phim 2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài 2.1. Cơ sở lý luận Để làm tiền đề cho việc thống kê, phân loại lỗi, chúng tôi dựa trên những cơ sở sau về âm đầu trong tiếng Việt và quan niệm về biến thể phương ngữ, lỗi phát âm,... 2.1.1. Âm đầu trong âm tiết tiếng Việt Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 92 Theo Đoàn Thiện Thuật (1997) và theo nhiều nhà Việt ngữ học, âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc. Có thể hình dung cấu tạo âm tiết tiếng Việt hiện đại qua lược đồ sau: THANH ĐIỆU VẦN ÂM ĐẦU Âm đệm Âm chính Âm cuối Các thành tố âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu có vị trí cố định trong cấu trúc âm tiết, mỗi thành tố có một chức năng riêng và đặc điểm cấu tạo của chúng cũng không giống nhau. Âm đầu là một thành tố trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt, có chức năng mở đầu âm tiết, khu biệt âm tiết. Theo nhiều tác giả, âm đầu có thể vắng mặt trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt. Chúng tôi chọn quan niệm được nhiều nhà Việt ngữ học chấp nhận về hệ thống âm đầu của tiếng Việt (21 âm vị) với những đặc điểm cấu âm âm học như sau: Đầu lưỡi Định vị Phương thức Môi Bẹt Quặt Mặt lưỡi Gốc lưỡi Thanh hầu Bật hơi ť Vô thanh t ʈ c k Ồn Không bật hơi Hữu thanh b d Tắc Vang ( mũi ) m n ɲ ŋ Vô thanh f s ʂ X h Ồn Hữu thanh v z ʐ ɣ Xát Vang ( bên ) l (Do đối tượng khảo sát của chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi âm đầu nên chúng tôi xin không miêu tả vắn tắt về các thành tố âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu). 2.2.2. Biến thể phương ngữ và lỗi phát âm âm đầu Những trường hợp phát âm /tr/ thành /ch/, /s/ thành /x/, /v/ thành /d,gi/, /l/ thành /n/, như tranh trại  chang chại, sâu sắc  xâu xắc, vẻ vang  dẻ dang, lo lắng  no nắng,... được xem là biến thể phương ngữ. Những trường hợp phát âm /th/  /h/, /kh/ /h/,..., như thịt  hịt, khuyên  hiên,... được xem là lỗi Năm học 2008 – 2009 93 phát âm. Tuy nhiên, do chúng tôi nghiên cứu trên cơ sở đọc cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ lắp lại (mà không phải là ghi âm ngôn ngữ tự nhiên của trẻ) nên những trường hợp nào không theo đặc điểm cấu âm - âm học của âm đầu như đã miêu tả trong bảng trên sẽ bị xem là lỗi. Ví dụ: cô giáo đọc sao sáng, trẻ nhắc lại thành xao xáng thì cũng xem là lỗi. 2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài Nhiều nghiên cứu về đặc điểm phát âm của trẻ từ 4 – 6 tuổi đã chỉ ra rằng khả năng phát âm của trẻ lứa tuổi mẫu giáo tiến bộ tỉ lệ thuận với lứa tuổi. Trẻ từ 4 – 6 tuổi đã nắm được toàn bộ hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Trẻ càng lớn phát âm càng chính xác, rõ ràng hơn. Tuy nhiên, cách phát âm của trẻ chưa thật sự ổn định. Ví dụ: trẻ phát âm rùa  dùa/ùa, khuyếch khoác - khếch khác/hếch hác, 3. Thực trạng lỗi phát âm âm đầu của trẻ mẫu giáo (4-6 tuổi) Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ mầm non thường phát âm sai các phụ âm đầu sau: phát âm phụ âm /ʐ/ thành /z/. Ví dụ: cà rốt thành cà dốt, rung rinh thành dung dinh. Phụ âm /t/ trẻ thường phát âm thành phụ âm /c/. Phụ âm /ʂ/ thành phụ âm /s/. Đôi khi phụ âm /X/ trẻ cũng phát âm thành /h/. Ví dụ: bé Quốc A. phát âm khách hàng thành hách hàng. Để có một cái nhìn toàn diện và hệ thống về thực trạng phát âm âm đầu của trẻ 4-6 tuổi và những lỗi mà trẻ thường phạm phải, chúng tôi xây dựng bảng từ có chứa các âm tiết có phụ âm đầu và tiến hành khảo sát trên cở sở bảng từ này. 3.1. Một số từ ngữ đã sử dụng để khảo sát khả năng phát âm của trẻ 1. Phụ âm /b/: bong bóng, bập bềnh, bập bênh, be bé, buồn bã. 2. Phụ âm /k/: con cá, cành cây, quả na, kéo co, cái còi, cồng cộc. 3. Phụ âm /z/: dạy dỗ, giấu diếm, dễ thương, dập dờn, giành giật, giờ giấc. 4. Phụ âm /d/: đủng đỉnh, đón chào, đi đứng, đùng đoàng, đánh đố . 5. Phụ âm /ɣ/: gà gáy, gần xa, gập gềnh, gọn gàng, gửi gắm. 6. Phụ âm /h/: hoa hồng, hí hửng, hoàng hôn, hương hoa, hoà hợp. 7. Phụ âm /l/: lưu luyến, lung linh, líu lo, long lanh, lo lắng, lành lặn. 8. Phụ âm /m/: mầm non, mong muốn, mập mạp, mũm mĩm, mạnh mẽ. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 94 9. Phụ âm /n/: no nê, nói cười, quả na, nồng nàn, náo nức, nứt nẻ. 10. Phụ âm /ʐ/: rung rinh, ríu rít, cà rốt, róc rách, rực rỡ, rụt rè. 11. Phụ âm /ʂ/: sang trọng, sáng sớm, sao sáng, sạch sẽ, sẵn sàng, sương sớm, sâu sắc. 12. Phụ âm /t/: tin tưởng, tưởng tượng, tích tắc, tập tễnh, tỉ tê, tim tím. 13. Phụ âm /v/ : vui vẻ, vâng lời, vắng vẻ, vẻ vang, vồn vã, vội vã. 14. Phụ âm /s/: xa xôi, xinh xắn, xanh xanh, xấu xí, xập xoè, xoắm xuýt. 15. Phụ âm /c/: chăm chỉ, chào hỏi, chim chích chòe, chang chang, chói chang. 16. Phụ âm /ʈ/: trắng trẻo, trong sáng, trường, trồng trọt, trang trại, trịnh trọng. 17. Phụ âm /ť/: thong thả, thơm ngát, thích thú, thướt tha, thắm thiết, thịt thà. 18. Phụ âm /X/: khó khăn, khanh khách, lênh khênh, khuyếch khoác, khuyên bảo. 19. Phụ âm /f/: phong phú, phố phường, phong phanh, phập phồng, phấp phới. 20. Phụ âm /ɲ/: nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, nhí nhảnh, nhỏ nhắn, nhăn nhó. 21. Phụ âm /ŋ/: ngủ ngon, ngông nghênh, ngốc nghếch, nghịch ngợm, nghe ngóng. 3.2. Khảo sát khả năng sử dụng hệ thống phụ âm đầu của trẻ (4-6 tuổi) Trong đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 9 bé. Đầu tiên, chúng tôi cho các bé phát âm từng phụ âm riêng biệt, trẻ nghe và bắt chước phát âm lại. Kết quả cụ thể như sau: Có 4 bé sau khi nghe đọc mẫu đã phát âm chính xác các phụ âm đầu sau đây: /b/, /c/, /h/, /ɣ/, /ŋ/, /k/, /z/, /d/, /l/, /m/, /n/, /ɲ/, /f/, /t/, /v/, /p/. Cho trẻ nghe và phát âm lại các âm tiết có âm đầu theo danh sách đã nêu ở 3.1, chúng tôi thu được kết quả sau: (1) Có 5/9 bé phát âm sai phụ âm /s/ thành /c/. Cụ thể 5 bé Nguyễn Quốc Năm học 2008 – 2009 95 A.; Trần Bảo Gia L. ; Vũ Thị Kiều Ph.; Phạm Thanh N. và Nguyễn Trần Khánh D. đều phát âm xanh xanh thành chanh chanh, xấu xí thành chấu xí, xa xôi thành cha chôi Phụ âm /s/ và /c/ là hai phụ âm hoàn toàn khác nhau về phương thức phát âm và tiêu chí định vị. Phụ âm /s/ là phụ âm xát – đầu lưỡi bẹt. Phụ âm /c/ là phụ âm tắc-mặt lưỡi. Qua khảo sát bố mẹ 5 bé đều có quê ở miền Trung và miền Nam. Song trên thực tế các bé lại phát âm sai phụ âm /s/. (2) Có 7/9 bé phát âm sai phụ âm /ʂ/ thành phụ âm /s/. Bảy bé Nguyễn Quốc A, Trần Bảo Gia L. và Tạ Ngọc T.; Vũ Thị Kiều Ph.; Phạm Thanh N.;Lê Thuỳ D.; và Nguyễn Trần Khánh D. Ví dụ: sáng sớm thành xáng xớm, sao sáng thành xao xáng, sạch sẽ thành xạch xẽ, Phụ âm /ʂ/ và /s/ đều là phụ âm xát - vô thanh, nhưng về tiêu chí định vị: phụ âm /ʂ/ là phụ âm đầu lưỡi - quặt, phụ âm /s/ là phụ âm đầu lưỡi – bẹt. Theo khảo sát bố mẹ các bé đều là người miền Trung và người miền Nam. Do đó, theo chúng tôi trường hợp các bé phát âm sai phụ âm /ʂ/ thành /s/ là do các bé không biết điều khiển vị trí của đầu lưỡi khi phát âm. (3) Phụ âm /ʈ/ cả 7 bé trên đều phát âm không đúng. Các bé phát âm /ʈ/ thành /c/. Chẳng hạn trường thành chường, trồng trọt thành chồng chọt, trang trại thành chang chại. Phụ âm /ʈ/ và /c/ đều là phụ âm tắc – vô thanh, nhưng khác nhau về tiêu chí định vị. Phụ âm /ʈ/ là phụ âm đầu lưỡi - ngặt, phụ âm /c/ là phụ âm mặt lưỡi. Bởi vậy, trong trường hợp này cũng giống như phụ âm /ʂ/, các bé chưa biết cách phát âm và chưa biết cách điều khiển vị trí đầu lưỡi khi phát âm. Tương tự phụ âm /ʐ/ 7 bé trên cũng phát âm sai, /ʐ/ thành /z/ ví dụ: rung rinh – dung dinh, ríu rít – díu dít, cà rốt – cà dốt, róc rách,Nguyên nhân cũng là do các bé không biết điều khiển đầu lưỡi khi phát âm. (4) Phụ âm /ť/: 3/9 bé (Quốc A và Gia L.; Thuỳ D.) phát âm sai, phụ âm /ť/ thành /h/. Ví dụ: thướt tha – hướt ha, thong thả - hong hả Phụ âm /ť/ và /h/ là hai phụ âm hoàn toàn khác nhau về phương thức phát âm cũng như tiêu chí định vị. Về phương thức phát âm: phụ âm /ť/ là phụ âm tắc – bật hơi, còn phụ âm /h/ là phụ âm xát – vô thanh. Về tiêu chí định vị: phụ âm /ť/ là phụ âm đầu lưỡi – bẹt, còn phụ âm /h/ là phụ âm thanh hầu. Theo chúng tôi nguyên nhân các bé phát âm sai là do ảnh hưởng của bố mẹ và môi trường xung quanh trẻ sống. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 96 (5) Phụ âm cuối cùng là phụ âm /X/ cũng là 3 bé Quốc A.; Gia L. và Thuỳ D. đều phát âm sai /X/ thành /h/. Chẳng hạn khanh khách – hanh hách , khó khăn – hó hăn, Về phương thức phát âm, hai phụ âm này đều là phụ âm xát – vô thanh. Nhưng tiêu chí định vi lại khác nhau. Phụ âm /X/ là phụ âm gốc lưỡi, còn phụ âm /h/ là phụ âm thanh hầu. Trường hợp sai này cũng là do hai bé chịu ảnh hưởng cách phát âm của bố mẹ. Có hai bé là Phạm Lê Hoàng Đức T. và Vũ Quốc B. có khả năng phát âm đúng tất cả các phụ âm đầu. 4. Một số hướng khắc phục tình trạng phát âm sai phụ âm đầu ở trẻ 4 – 6 tuổi 4.1. Biện pháp khắc phục Đối với nhà trường: cần điều tra tình hình phát âm của trẻ ngay từ đầu năm học để đề ra kế hoạch dạy trẻ luyện phát âm đúng, cần có chương trình, kế hoạch đồng bộ, phối hợp giữa các lớp mẫu giáo để có sự thống nhất dạy trẻ luyện phát âm đúng ngay từ đầu của tuổi mẫu giáo, cần có bài tập luyện phát âm đối với những âm trẻ phát âm sai. Mặt khác giáo viên phải phát âm đúng để trẻ “bắt chước”. Ngoài ra nhà trường cần thường xuyên tổ chức các hoạt động như: diễn văn nghệ, thi kể truyện, đọc thơ qua đó trẻ tự trau dồi cách phát âm của mình. Đối với gia đình – họ hàng: cần tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp với người lớn một cách cởi mở, thoải mái. Mọi người trong gia đình khi giao tiếp với nhau cần nói năng hoà nhã, khi nói với trẻ cần nói to, rõ, nhưng thân mật để trẻ tiếp thu. Cần cho trẻ xem và nghe chương trình dành cho thiếu nhi để trẻ có điều kiện nghe giọng nói, cách phát âm của phát thanh viên. Nếu có điều kiện về thời gian, thành viên trong gia đình, họ hàng nên đọc truyện hoặc kể chuyện cho trẻ nghe. Gia đình cần kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ, giúp trẻ phát âm đúng, giúp trẻ phát triển về mặt ngôn ngữ. Đối với bản thân trẻ: trẻ cần phải tập trung nghe chính xác khi giao tiếp để có thể “bắt chước”. Trẻ cần được luyện tập tốt bộ máy phát âm tức luyện giọng. Khi phát âm, trẻ phải tập trung phát âm to, rõ, chính xác, không được phát âm ậm ừ, hoặc nhanh quá hay chậm quá. Đối với xã hội: Cần xây dựng những trung tâm vui chơi giải trí cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ sinh hoạt tập thể, vui chơi, hát, kể chuyện Giúp các trường Mầm non về mọi mặt để tạo điều kiện cho giáo viên dạy tốt và các cháu học tốt. 4.2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ Năm học 2008 – 2009 97 Tạo điều kiện cho trẻ bắt chước tiếng nói của người lớn: các bậc cha mẹ cần chú ý cho trẻ được nghe người lớn nói nhiều. Khi nói cần chú ý sử dụng từ đúng, cố gắng dùng những từ giàu hình ảnh, âm thanh. Không cãi nhau, không nói tục trước mặt trẻ. Làm cho cuộc sống của trẻ phong phú, giàu cảm xúc, ấn tượng: mở rộng môi trường sống cho trẻ thì càng biết nhiều từ, biết nhiều cách diễn đạt tên gọi và mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Đồng thời cho trẻ giao tiếp với nhiều người, đi nhiều nơi, xem nhiều thứ thì cuộc sống của trẻ sẽ khơi gợi, kích thích nhu cầu giao tiếp ở trẻ. Ngôn ngữ trẻ sẽ được rèn luyện và điệu bộ phù hợp.Thường xuyên đọc sách báo, kể chuyện cho trẻ nghe. 4.3. Dạy trẻ phát âm đúng: Hình thành cách phát âm đúng: Cần rèn luyện và phát triển tai nghe, sự phối hợp vận động linh hoạt, tinh tế của cơ quan phát âm để trẻ biết cách cấu âm đúng và luyện thơ ngôn ngữ. Giáo dục trẻ nói đúng: dạy trẻ phát âm đúng. Hình thành cách nói diễn cảm: tức là dạy trẻ biết sử dụng các phương tiện biểu cảm của âm thanh ngôn ngữ như cao độ, trường độ, cường độ, tốc độ, nhịp độ, ngừng nghỉ khi nói Giáo dục trẻ văn hoá nói khi giao tiếp: Phát triển khả năng phát âm, trên cơ sở đó dạy trẻ phát âm đúng, chính xác, thái độ phù hợp với nội dung nói. Phát triển khả năng tai nghe, sử dụng giọng nói khác nhau, có thái độ phù hợp với nội dung nghe. 4.4. Một số biện pháp luyện phát âm Luyện phát âm theo mẫu: Tức là quá trình hướng dẫn trẻ phát âm theo đúng các chuẩn âm thanh ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ. Các bước tiến hành luyện phát âm theo mẫu: Bước 1: Giáo viên phát âm mẫu. Bước 2: Trẻ phát âm theo mẫu. Luyện tập: Ví dụ: Khi tập cao độ, động tác đưa tay lên cao, xuống thấp giúp trẻ hình dung được cách sử dụng giọng của mình cụ thể hơn. Tổ chức trò chơi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ: Giúp trẻ phát âm đúng các phụ âm đầu mà trẻ thường phạm lỗi như phụ âm /th/, /h/, /r/, /s/, /kh/,... 5. Kết luận Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 98 Trên đây là những khảo sát ban đầu của chúng tôi về thực trạng phát âm âm đầu của một nhóm trẻ 4 - 6 tuổi. Do thời gian nghiên cứu có hạn, chúng tôi mới dừng lại khảo sát thực trạng theo mẫu đưa trước, chưa khảo sát ngôn ngữ tự nhiên của trẻ. Tuy nhiên, từ kết quả này, chúng tôi dự định sẽ bổ sung, sửa chữa bảng từ khảo sát, đồng thời sẽ ghi âm phát âm tự nhiên của trẻ để có thể có một cái nhìn hệ thống, xác thực và toàn diện về thực trạng phát âm âm đầu cũng như những loại lỗi phát âm âm đầu mà trẻ 4 – 6 tuổi thường phạm phải. Qua việc tìm hiểu về việc lỗi phát âm phụ âm đầu của trẻ 4-6 tuổi, chúng tôi thấy việc tìm hiểu ngôn ngữ trẻ thơ là hết sức quan trọng. Vì qua đấy chúng ta có thể hiểu rõ hơn “thế giới ngôn ngữ” của trẻ. Đặc biệt việc sớm phát hiện các lỗi khi trẻ phát âm là rất quan trọng nó giúp chúng ta nhanh chóng đưa ra những biện pháp khắc kịp thời cũng như đề xuất những phương pháp hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Vương Hữu Lễ, Hoàng Dũng (1994), Ngữ âm tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. [2]. Nguyễn Xuân Khoa (1986), Tiếng Việt tập 1, NXB trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. [3]. V.X Mukhina (1986), Tâm lý học mẫu giáo, NXB Giáo dục [4]. Nguyễn Thị Phương Nga (2005), Tuyển tập trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non, NXB Giáo dục. [5]. Đặng Thu Quỳnh (2006), Bài soạn hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 tuổi làm quen với chữ cái, NXB KHXH. [6]. Nguyễn Thị Kim Thanh (2005), Người mẹ cần biết, NXB Giáo dục. [7]. Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt hiện đại, NXB KHXH. [8]. Nguyễn Xuân Thức, Tính tích cực giao tiếp và phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi, Nghiên cứu số 1 năm 1995. [9]. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (1987), Giáo dục trẻ mẫu giáo trong nhóm bạn bè, NXB Hà Nội. [10]. AP.Xolokina (1997), Dạy học ở mẫu giáo, NXB Giáo dục. [11]. [12]. [13]. [14]. [15].
Tài liệu liên quan