Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa, 
kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn  được coi là một công cụ 
quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà 
nước  ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ  đạo trong nền 
kinh tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành  công, m ặt tích cực, trong quá trình phát triển 
doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu 
đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã 
khẳng định: 
Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp,  điều chỉnh cơ cấu,  đổi 
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời 
phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước  đầu tư 100% vốn ở một số 
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế 
mạnh trên cơ sở các  Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần 
kinh tế thực hiện tốt các chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các 
doanh nghiệp của Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho 
thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải 
thể, phá sản những doanh nghiệp  hoạt  động không hiệu quả và không thực hiện 
được các biện pháp trên [5].
Từ thực tế những mặt tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước 
ở Quảng Bình trong thời gian qua và phương hướng, mục tiêu  đổi mới phát triển doanh 
nghiệp nhà nước trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và 
hiện  đại hóa  đất nước. Do vậy việc chọn  đề tài:  " Các giải pháp thúc  đẩy quá trỡnh sắp 
xếp,  đổi mới doanh nghiệp nhà nước  để nâng cao  hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở 
tỉnh Quảng Bỡnh  hiện nay "  là một vấn  đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa 
về lý luận đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 94 trang
94 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2158 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới 
doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh 
nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay 
mở đầu 
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 
kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ 
quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà 
nước ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền 
kinh tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, mặt tích cực, trong quá trình phát triển 
doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu 
đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã 
khẳng định: 
Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi 
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời 
phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số 
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế 
mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần 
kinh tế thực hiện tốt các chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các 
doanh nghiệp của Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho 
thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải 
thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện 
được các biện pháp trên [5]. 
Từ thực tế những mặt tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước 
ở Quảng Bình trong thời gian qua và phương hướng, mục tiêu đổi mới phát triển doanh 
nghiệp nhà nước trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và 
hiện đại hóa đất nước. Do vậy việc chọn đề tài: " Các giải pháp thúc đẩy quá trỡnh sắp 
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở 
tỉnh Quảng Bỡnh hiện nay " là một vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa 
về lý luận đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước. 
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, sự cần thiết phải 
đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng như các hình thức sắp 
xếp lại doanh nghiệp nhà nước. 
Phân tích, đánh giá thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh 
Quảng Bình trong những năm vừa qua. 
Xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh 
nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời 
gian tới. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 
Luận văn không đề cập toàn bộ những vấn đề về sắp xếp, đổi mới trong các doanh 
nghiệp nói chung mà chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sắp xếp, 
đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước. Với thực tiễn quá trình sắp xếp, đổi mới doanh 
nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1998 - 2003 để minh họa cho những 
vấn đề lý luận được đề cập trong luận văn. 
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 
Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, 
vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu thế tất yếu của việc sắp xếp, 
đổi mới doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và sắp xếp đổi mới của doanh nghiệp nhà 
nước của tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua. Từ đó, rút ra ưu điểm tồn tại, chỉ rõ nguyên 
nhân của các tồn tại đó. 
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình sắp 
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh 
Quảng Bình trong thời gian tới. 
5. Bố cục của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn 
được trình bày thành 3 chương: 
Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh 
nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế. 
Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình 
trong thời gian qua. 
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh 
nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình 
hiện nay. 
Chương 1 
Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước 
trong điều kiện 
nền kinh tế Nhiều thành phần và hội nhập Quốc tế 
1.1. Lý luận chung về Doanh nghiệp nhà nước 
1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước 
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà 
nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng nhất và đồng nghĩa với kinh tế nhà nước. 
Do vậy phải điểm lại các quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng 
cả về lý luận và thực tiễn. Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách 
doanh nghiệp nhà nước, các học giả có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước, 
các định nghĩa pháp lý và học thuật về doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia khác nhau 
cũng rất khác nhau. ở nước ta quan niệm về doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đổi 
mới quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều và rất nhiều học giả, nhà quản lý đôi khi lẫn lộn 
giữa khái niệm doanh nghiệp nhà nước với các khái niệm gần nghĩa khác dẫn đến hiểu sai 
lệch về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước và cuối cùng dẫn đến cách thức tổ chức 
quản lý, đổi mới doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau giữa các ngành, các địa phương. 
Trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước (trước đây 
gọi là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế, đó là những doanh 
nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ, bao cấp (Trung Quốc gọi là cơ 
chế ăn nồi cơm chung, Liên Xô cũ gọi là cơ chế chi phí). Về mặt sở hữu, đó là những 
doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100%, trực tiếp quản lý. 
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc chuyển đổi 
(cải cách, đổi mới) cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề trung 
tâm. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt 
động, cơ chế quản lý và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển một số 
hình thức đan xen sở hữu hoàn toàn mới. Chính vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước ban 
hành ngày 20/4/1995 (lần đầu tiên ở Việt Nam) đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về 
doanh nghiệp nhà nước như sau: 
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, 
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, 
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp 
nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách 
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp 
quản lý [1]. 
Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã có một vai trò rất quan trọng trong việc củng 
cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước, góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế 
nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị 
trường ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua còn nhiều 
doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, có nhiều nguyên 
nhân dẫn đến tình trạng này như những yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ thiết bị lạc 
hậu... trong đó, có một nguyên nhân quan trọng là những vướng mắc về thể chế, chính 
sách tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước làm cho khu vực doanh nghiệp này 
thiếu tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, sau khi Luật doanh nghiệp 
nhà nước có hiệu lực thi hành, đã có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động của doanh 
nghiệp nói chung được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật thương mại... 
Trong đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp được đổi 
mới hơn so với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, để thực 
hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX 
về sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và tiến tới 
hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp, Luật doanh 
nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, khẳng định: 
"Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc 
có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ 
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn" [15]. 
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước 
Doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét phân loại theo nhiều tiêu thức khác 
nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu: 
Xét theo mức độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có hai loại: Loại doanh nghiệp 
nhà nước chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước; loại doanh nghiệp nhà nước có 
nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ một phần sở hữu nhất định. 
Xét theo mục tiêu kinh tế - xã hội, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh 
nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích); doanh nghiệp hoạt động vì 
mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) [8], [7]. 
Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, doanh nghiệp nhà nước có thể chia 
thành ba loại: 
- Doanh nghiệp nhà nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị 
pháp nhân độc lập: loại doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn từ ngân sách của các cơ quan 
chủ quản thuộc chính phủ và các đại biểu chính phủ tham gia vận hành kinh tế mà chủ yếu là 
các xí nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh như y tế, giao thông công cộng, điện nước, bưu 
chính, đường sắt, sản xuất vũ khí... Hiện nay, loại doanh nghiệp nhà nước này không còn 
thấy nhiều ở các nước. 
- Doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về nhà 
nước: Đây là các doanh nghiệp nhà mà toàn bộ tài sản do nhà nước đầu tư và có đầy đủ địa vị 
pháp nhân độc lập. ở các nước trên thế giới loại hình doanh nghiệp này thường thuộc các lĩnh 
vực công cộng, lấy việc phục vụ xã hội làm mục tiêu cơ bản, như: đường sắt, bưu chính, điện, 
khí, ga, nước sạch... Loại doanh nghiệp nhà nước này là những thực thể kinh tế được lập ra và 
kinh doanh dựa vào một pháp quy cụ thể nào đó của nhà nước, đồng thời lệ thuộc vào cơ quan 
quản lý của nhà nước, tuy có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập, đồng thời có quyền tự chủ kinh 
doanh nhất định trong phạm vi đã xác định nhưng các doanh nghiệp này đều phải lấy một mục 
tiêu nào đó của Nhà nước làm tôn chỉ hoạt động kinh doanh và chấp hành sự điều tiết kinh tế 
và quản lý nhất định của Chính phủ. 
- Doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước nắm 
quyền sở hữu một phần tài sản: phần lớn ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước hỗn 
hợp là hình thức chủ yếu nhất trong mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm lớn 
nhất của loại doanh nghiệp nhà nước này là nhà nước tham dự cổ phần, nhờ đó có thể 
khống chế chúng. Nhưng doanh nghiệp nhà nước loại này hoạt động kinh doanh theo 
nguyên tắc của doanh nghiệp tư nhân, thu lợi nhuận kinh doanh qua cạnh tranh với các 
doanh nghiệp khác, đồng thời, bằng chế độ tham dự, nhà nước có thể triển khai các hoạt 
động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước bao gồm những công trình 
cơ sở hạ tầng như ngân hàng, đường sắt, đường bộ, vận tải biển và cũng có thể triển khai 
mở rộng vào các ngành công nghiệp mới. Doanh nghiệp nhà nước theo chế độ nhà nước 
tham dự ngày càng tỏ ra là loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả nhất [9], [10]. 
Dựa theo cấp độ quản lý, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: 
- Doanh nghiệp nhà nước địa phương (doanh nghiệp địa phương): là những doanh 
nghiệp chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh. 
- Doanh nghiệp nhà nước Trung ương (doanh nghiệp Trung ương): là những 
doanh nghiệp vừa chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh 
cũng đồng thời chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp trực tiếp của các cơ quan quản lý cấp 
trên theo ngành dọc như các Tổng công ty (Tổng công ty Điện lực), các liên hiệp xí nghiệp 
(liên hiệp xí nghiệp đường sắt), các Cục, Tổng cục… 
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo 
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh 
nghiệp nhà nước và hệ thống thể chế kinh tế vĩ mô luôn được xác định là hai công cụ quan 
trọng để Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt 
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên 
các mặt chủ yếu sau: 
Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực 
hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố lại dân cư 
theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế văn hóa, đô thị mới, trang bị 
lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán 
bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng để phát triển đất nước. 
Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng 
và kinh tế nhà nước nói chung, đã bước đầu hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích 
các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh 
tổng hợp của nền kinh tế. 
Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và 
hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà 
nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các 
điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai 
trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, 
như điện, xi măng, sắt thép, phân bón, xăng dầu, giấy viết... là lực lượng chủ yếu thực hiện 
các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích, nhờ có doanh nghiệp nhà 
nước và lực lượng vũ trang mà chúng ta có khả năng ứng phó có kết quả trong việc khắc 
phục ảnh hưởng và hậu quả của thiên tai. 
Doanh nghiệp nhà nước góp phần điều tiết cơ cấu nền kinh tế theo hướng công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển mạnh của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành 
công nghiệp, dịch vụ góp phần tăng nhanh tỷ trọng GDP của các ngành này trong nền kinh 
tế; các ngành thuộc cơ sở hạ tầng như: giao thông. năng lượng, bưu chính viễn thông đã 
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được 
thành lập ở vùng núi, vùng có nhiều khó khăn góp phần thay đổi kinh tế vùng lãnh thổ. 
Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của Nhà nước, 
doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản 
phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hóa 
cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước. 
Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính 
sách xã hội và ổn định kinh tế - xã hội, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết 
các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa 
giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới. 
Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn giữ được vai trò quan 
trọng trong nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ 
đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 
1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
Là một loại hình trong cộng đồng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong 
nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước có các đặc trưng chung như mọi doanh 
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: 
- Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký 
kinh doanh theo quy định nhằm thực hiện các mục đích hoạt động kinh doanh. 
- Chức năng của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, 
trao đổi, hợp tác và tiêu thụ sản phẩm. 
- Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích kinh tế, trước hết là 
mục đích sinh lợi. 
- Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại 
của doanh nghiệp trong nền kinh tế. 
Ngoài những đặc điểm chung kể trên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có những 
đặc điểm riêng, đó là: 
- Chủ sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhà nước là Nhà nước dưới hình 
thức sở hữu toàn dân. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước thường phải chịu áp lực quản lý 
hoặc điều tiết của Chính phủ như giá bán, nguồn cung cấp nguyên liệu, họ không được chủ 
động hoàn toàn trong việc lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và phương án đầu tư. Hơn 
thế, các doanh nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ 
quản, mỗi cơ quan lại có một yêu cầu riêng về quản lý, vì vậy một quyết định có tính chiến 
lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn mất cả cơ hội do phải trình duyệt 
qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý. 
- Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vẫn 
có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản quan trọng nhất (như đối 
với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài việc đầu tư phát triển để thu được lợi 
nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù 
hợp với kế hoạch quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội. 
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà 
nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo và ổn định nền 
kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tích cực như cung cấp những dịch 
vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát 
triển kinh tế; giải quyết một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức 
năng đặc biệt như an ninh, quốc phòng… 
Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến công tác 
hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn ảnh hưởng 
đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước. 
1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 
1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được khắc phục 
Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp nhà nước đã 
có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những mặt tích cực, trong quá trình phát triển 
doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu 
và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: 
- Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà 
nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của 
doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn. 
Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, 
sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn 
chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được 
mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước 
dành cho. 
Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài 
chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu 
hao tài sản cố đ