Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh những cơ
hội mở ra cho tất cả các doanh nghiệp thì cũng có không ít những thách thức, rủi ro mà
mỗi doanh nghiệp đều phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, môi
trường kinh doanh ngày nay, hơn bất kỳ một kỷ nguyên nào trước đây, hằng số duy nhất là
sự thay đổi. Công nghệ thông tin và nhất thể hóa toàn cầu là những thay đổi môi trường
đang làm chuyển đổi hình thức kinh doanh và xã hội. Thế giới chúng ta đang trở nên một
thế giới không biên giới với những dân toàn cầu, các đối thủ cạnh tranh toàn cầu, các nhà
cung cấp toàn cầu, những khách hàng toàn cầu và các nhà phân phối toàn cầu.
Thế giới đang biến đổi, và các doanh nghiệp phải thích nghi với những thay đổi
đó, nếu không họ sẽ đối diện với sự lụn bại. Sự cần thiết phải thích ứng với sự thay đổi đã
buộc các doanh nghiệp đến với những vấn đề then chốt trong quản trị chiến lược như: Loại
hình kinh doanh nào cần thực hiện? Chúng ta có đang ở trong lĩnh vực đúng hay không?
Chúng ta có nên định hình lại hoạt động kinh doanh không? Chúng ta nên theo đuổi những
chiến lược kinh doanh nào? Khách hàng của chúng ta đang thay đổi ra sao? Và những
công nghệ đang phát triển có thể khiến chúng ta bị phá sản được không? v.v...
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Vì vậy bên cạnh những cơ hội kinh doanh mới thì các doanh nghiệp đang phải đối
mặt với nhiều thách thức trong quá trình kinh doanh của mình, do môi trường kinh doanh
đã thay đổi căn bản.
Để thích nghi với những thay đổi của môi trường kinh doanh như vậy, rất nhiều
doanh nghiệp đã phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp và áp dụng
những phương pháp mới để quản trị chiến lược nhằm đạt mục tiêu kinh doanh và phát triển
doanh nghiệp.
ở Việt Nam, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước,
Chính phủ đã có Nghị định số 153/2004/NĐ-CP ngày 09/8/2004 về việc chuyển đổi các
Tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và Nghị
định số 111/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về tổ chức, quản lý Tổng công ty nhà nước và
các công ty nhà nước độc lập sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Trong mô hình công ty mẹ - công ty con thì công ty mẹ và công ty con là các tổ chức kinh
tế độc lập nhưng lại có mốí quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó công ty mẹ có chức năng
kinh doanh và là nòng cốt của tổ hợp công ty mẹ - công ty con. Do vậy việc chuyển đổi
các Tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đòi hỏi công ty
mẹ phải xác định cho mình được chiến lược kinh doanh vừa độc lập với các công ty con
vừa giúp các công ty con định hướng hoạt động kinh doanh của mình theo chiến lược của
công ty mẹ. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh của công ty mẹ, vì vậy có ý nghĩa cấp
thiết đối với việc thực hiện chiến lược phát triển các Tổng công ty nhà nước và các tập
đoàn kinh tế nhà nước nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
165 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2290 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược kinh doanh cho công ty mẹ Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chiến lược kinh doanh cho công ty mẹ -
Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh những cơ
hội mở ra cho tất cả các doanh nghiệp thì cũng có không ít những thách thức, rủi ro mà
mỗi doanh nghiệp đều phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, môi
trường kinh doanh ngày nay, hơn bất kỳ một kỷ nguyên nào trước đây, hằng số duy nhất là
sự thay đổi. Công nghệ thông tin và nhất thể hóa toàn cầu là những thay đổi môi trường
đang làm chuyển đổi hình thức kinh doanh và xã hội. Thế giới chúng ta đang trở nên một
thế giới không biên giới với những dân toàn cầu, các đối thủ cạnh tranh toàn cầu, các nhà
cung cấp toàn cầu, những khách hàng toàn cầu và các nhà phân phối toàn cầu.
Thế giới đang biến đổi, và các doanh nghiệp phải thích nghi với những thay đổi
đó, nếu không họ sẽ đối diện với sự lụn bại. Sự cần thiết phải thích ứng với sự thay đổi đã
buộc các doanh nghiệp đến với những vấn đề then chốt trong quản trị chiến lược như: Loại
hình kinh doanh nào cần thực hiện? Chúng ta có đang ở trong lĩnh vực đúng hay không?
Chúng ta có nên định hình lại hoạt động kinh doanh không? Chúng ta nên theo đuổi những
chiến lược kinh doanh nào? Khách hàng của chúng ta đang thay đổi ra sao? Và những
công nghệ đang phát triển có thể khiến chúng ta bị phá sản được không? v.v...
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Vì vậy bên cạnh những cơ hội kinh doanh mới thì các doanh nghiệp đang phải đối
mặt với nhiều thách thức trong quá trình kinh doanh của mình, do môi trường kinh doanh
đã thay đổi căn bản.
Để thích nghi với những thay đổi của môi trường kinh doanh như vậy, rất nhiều
doanh nghiệp đã phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp và áp dụng
những phương pháp mới để quản trị chiến lược nhằm đạt mục tiêu kinh doanh và phát triển
doanh nghiệp.
ở Việt Nam, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước,
Chính phủ đã có Nghị định số 153/2004/NĐ-CP ngày 09/8/2004 về việc chuyển đổi các
Tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và Nghị
định số 111/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về tổ chức, quản lý Tổng công ty nhà nước và
các công ty nhà nước độc lập sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Trong mô hình công ty mẹ - công ty con thì công ty mẹ và công ty con là các tổ chức kinh
tế độc lập nhưng lại có mốí quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó công ty mẹ có chức năng
kinh doanh và là nòng cốt của tổ hợp công ty mẹ - công ty con. Do vậy việc chuyển đổi
các Tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đòi hỏi công ty
mẹ phải xác định cho mình được chiến lược kinh doanh vừa độc lập với các công ty con
vừa giúp các công ty con định hướng hoạt động kinh doanh của mình theo chiến lược của
công ty mẹ. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh của công ty mẹ, vì vậy có ý nghĩa cấp
thiết đối với việc thực hiện chiến lược phát triển các Tổng công ty nhà nước và các tập
đoàn kinh tế nhà nước nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, là một công ty nhà nước được
thành lập theo Quyết định số 327/2005/QĐ/TTg ngày 09/12/2005 của Thủ tướng Chính
phủ, hoạt động kinh doanh chủ yếu trong ngành sản xuất thuốc lá và đã được Chính phủ
cho phép hoạt động kinh doanh đa ngành (theo điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng công ty
Thuốc lá Việt Nam ban hành theo Quyết định số 119/2006/QĐ/TTg ngày 26/5/2006 của
Thủ tướng Chính phủ. Trong điều kiện Nhà nước kiểm soát chặt chẽ và thực hiện độc
quyền việc sản xuất thuốc lá điếu, nhưng với việc Việt Nam gia nhập WTO, thuốc lá ngoại
được phép nhập khẩu để tiêu thụ trong nước, thì sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh
quốc tế tại ngay thị trường nội địa đang tạo ra áp lực lớn đối với ngành thuốc lá nói chung
và đối với Tổng công ty Thuốc lá nói riêng. Mặt khác, từ khi chuyển sang hoạt động theo mô
hình công ty mẹ - công ty con đến nay, công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam
chưa xây dựng được một cách có hệ thống chiến lược kinh doanh của mình để từ đó tiến
hành quản trị chiến lược hướng các hoạt động nội bộ phục vụ mục tiêu phát triển kinh
doanh của Tổng công ty trong tương lai. Vì vậy, Hội đồng quản trị Tổng công ty Thuốc lá
Việt Nam trong phiên họp ngày 08/10/2008 đã ra nghị quyết về việc Xây dựng Chiến lược
kinh doanh của tổ hợp công ty mẹ - công ty con Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam giai
đoạn 2010 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
Từ những lý do nêu trên, thì việc xây dựng Chiến lược kinh doanh cho công ty
mẹ - Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn lớn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về chiến lược kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nước. Điển hình là một số công trình nghiên cứu như
sau:
Về luận văn:
- Hoàn thiện chiến lược kinh doanh của Tổng công ty Sông Đà, của Phùng Thế
Hùng, luận văn thạc sĩ Kinh doanh và Quản lý, Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2007;
- Xây dựng chiến lược kinh doanh cho Công ty cổ phần Dịch vụ Đường sắt Hà
Nội, của Bùi Thị Ngọc Quỳnh, luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn -
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007;
- Chiến lược kinh doanh của công ty UNIVER-VN, của Ngô Tường Minh, luận văn
Thạc sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2000;
- Định hướng chiến lược kinh doanh của công ty Pepsi IBC đến 2010, của Trần
Nguyên Thành, luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2000;
- Chiến lược kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn Nestle Việt Nam đến
năm 2010, của Trần Lương Hiền, luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh, 2004;
- Một số đề xuất chiến lược kinh doanh cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng
hải Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, của Nguyễn Hoàng Linh, luận văn Thạc sĩ Quản trị
kinh doanh, Đại học Bách khoa Hà Nội, 2004;
- Cơ sở lý thuyết hoạch định chiến lược và ứng dụng xây dựng chiến lược kinh
doanh cho Công ty Rượu Hà Nội tới năm 2010, của Hồ Văn Hải, luận văn Thạc sĩ Quản trị
kinh doanh, Đại học Bách khoa Hà Nội, 2004;
- Phân tích và các giải pháp chiến lược kinh doanh ở Tổng công ty Chè Việt Nam,
của Nguyễn Phương Hoa, luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Bách khoa Hà
Nội, 2002;
- Xây dựng chiến lược kinh doanh cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam giai đoạn
đến 2020, của Hoàng Thị Đào, luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Bách khoa
Hà Nội, 2004.
Một số luận văn Thạc sĩ về Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam:
- Định hướng chiến lược kinh doanh của Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đến năm
2010, của Nguyễn Sỹ Khoa, luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế - Thành phố Hồ Chí Minh
2001;
- Đề xuất một số giải pháp chiến lược ngành thuốc lá Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, của Nguyễn Đức Thuận, luận văn Thạc sĩ, Đại học Bách khoa Hà
Nội, 2005;
- Chiến lược kinh doanh của nhà máy thuốc lá Thăng Long giai đoạn 2005-2015,
của Đặng Xuân Phương, luận văn Thạc sĩ; Đại học Bách khoa Hà Nội, 2005;
- Hoạch định chiến lược kinh doanh của công ty thương mại thuốc lá giai đoạn
2006 - 2010, của Phạm Thị Lan Hương, luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học
Bách khoa Hà Nội, 2006;
- Một số giải pháp chiến lược về tổ chức, sắp xếp Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam
đến 2010, của Nguyễn Thái Sinh, luận văn Thạc sĩ, Đại học Bách khoa Hà Nội, 2003.
- Xây dựng chiến lược kinh doanh của Nhà máy thuốc lá Sài Gòn, của Nguyễn
Phụng Thiên, luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Bách khoa Hà Nội, 2003.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu liên quan đến chiến lược kinh doanh của
công ty mẹ hoạt động trong mô hình công ty mẹ - công ty con thì chưa thấy có tác giả nào
đề cập đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Góp phần xây dựng chiến lược kinh doanh của công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc
lá Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ nội dung cơ bản chiến lược kinh doanh của công ty mẹ trong mối quan hệ
chi phối, định hướng công ty con trong nền kinh tế thị trường nói chung, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu tại công ty
mẹ - Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam;
Phân tích và đề xuất chiến lược kinh doanh của công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc
lá Việt Nam đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu chủ yếu về xây dựng chiến lược
kinh doanh của công ty.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn được thực hiện tại công ty mẹ - Tổng công ty
Thuốc lá Việt Nam.
Nghiên cứu trong thời gian từ khi Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam chuyển sang
hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, từ 2006 đến nay.
Do chiến lược kinh doanh của công ty mẹ - công ty con là vấn đề rộng lớn, phức
tạp và còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động kinh doanh theo mô
hình này, vì vậy trong luận văn này phạm vi, giới hạn nghiên cứu chỉ đề cập đến chiến
lược kinh doanh của công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam. Những vấn đề có
liên quan sẽ được đề cập đến khi cần thiết.
5.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
- Quan điểm của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước đối với việc sắp xếp,
Formatted: Indent: Left: 0 cm, First
line: 1,5 cm, Outline numbered +
Level: 7 + Numbering Style: Bullet +
Aligned at: 1,2 cm + Indent at: 1,2
cm, No widow/orphan control
Formatted: Indent: Left: 0 cm, No
widow/orphan control
Formatted: Heading 1, Indent: First
line: 1,5 cm, Line spacing: 1,5 lines,
No bullets or numbering, No
widow/orphan control
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
- Lý thuyết về chiến lược và quản trị chiến lược công ty.
- Cơ sở thực tiễn: Hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Thuốc lá Việt
Nam và ngành thuốc lá Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp thống
kê, phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu, tài liệu quản lý của Tổng công ty Thuốc lá
Việt Nam và của ngành thuốc lá Việt Nam; các số liệu về tình hình kinh tế Việt Nam; số
liệu về sản xuất và quản lý ngành thuốc lá của một số nước trong khu vực và trên thế giới;
kết quả hoạt động kinh doanh của một số Tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta trong những năm gần đây.
6. Những đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Làm rõ sự cần thiết và nội dung xây dựng chiến lược kinh doanh của
công ty mẹ hoạt động kinh doanh trong mô hình công ty mẹ - công ty con, đặc biệt đối với
Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam.
- Về thực tiễn: Làm rõ thực trạng những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng chiến
lược kinh doanh của công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam.
- Đề xuất một số chiến lược kinh doanh của công ty mẹ - Tổng công ty Thuốc lá
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, :12 tiết.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về chiến lược kinh doanh của Công ty mẹ - trong mô
hình công ty mẹ - công ty con.
- Chương 2: Phân tích môi trường kinh doanh của công ty mẹ - Tổng công ty
Thuốc lá Việt Nam.
Formatted: Indent: First line: 1,5 cm,
Outline numbered + Level: 9 + Aligned
at: 1,2 cm + Indent at: 0 cm, No
widow/orphan control
- Chương 3: Đề xuất chiến lược kinh doanh của Công ty Mẹ - Tổng công ty Thuốc
lá Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015.
CChương 1
Cơ sở lý luận về xây dựng chiến lược kinh doanh
của công ty mẹ - công ty con
1.11.1. Cơ sở lý luận về công ty mẹ - công ty con và vai trò của công ty mẹ
trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con
1.1.11.1.1. Khái niệm, đặc điểm của mô hình công ty mẹ - công ty con
Cơ sở xuất phát quan trọng nhất của mô hình công ty mẹ - công ty con là sự bành
Formatted: Bullets and Numbering
trướng, mở rộng các hoạt động kinh doanh của các công ty lớn và yêu cầu chia sẻ, hạn chế
rủi ro trong kinh doanh của nó.
Mô hình công ty mẹ - công ty con cho phép các công ty lớn phát triển và mở rộng
kinh doanh bằng cách thu hút các nguồn vốn ngoài xã hội vào công ty mà vẫn đảm bảo
được sự kiểm soát, chi phối của công ty mẹ đối với các công ty con.
Các hình thức hình thành công ty mẹ - công ty con:
Thứ nhất: Một công ty bỏ vốn ra thành lập đơn vị độc lập, có tư cách pháp nhân
trực thuộc mình;
Thứ hai: Một công ty bỏ vốn ra mua lại một công ty khác;
Thứ ba: Tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh trên cơ sở sát nhập các công ty;
Thứ tư: Tổ chức lại các Tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước;
Như vậy:
công ty mẹ của một công ty khác là công ty có quyền kiểm soát công ty khác,
làm chủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có vốn đầu tư, vốn cổ phần ở các công ty khác đủ
để chi phối về vốn và từ đó chi phối các quyết định quan trọng đối với công ty khác đó.
công ty mẹ có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng; có thể trực tiếp sản xuất kinh
doanh, nhưng cũng có thể chỉ giữ chức năng quản lý chung, nghiên cứu phát triển, định ra
chiến lược kinh doanh..., còn các chức năng khác của quá trình sản xuất kinh doanh được
giao cho các công ty con thực hiện.
công ty con là công ty do một công ty khác đầu tư toàn bộ vốn điều lệ hoặc nắm
giữ cổ phần chi phối, vốn góp chi phối; trong đó cổ phần chi phối hoặc vốn góp chi phối
hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty đó đủ để công ty mẹ chi
phối các quyết định quan trọng của công ty đó. Công ty con có tư cách pháp nhân, có tài
sản riêng, tên gọi, con dấu và là pháp nhân độc lập với công ty mẹ. Công ty con được tổ
chức theo loại hình pháp lý mà doanh nghiệp được đăng ký kinh doanh.
Công ty liên kết của công ty mẹ là công ty do công ty mẹ và các pháp nhân, thể
nhân khác cùng đầu tư góp vốn để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh và không
nắm giữ quyền chi phối đối với các quyết định quan trọng của công ty đó.
công ty mẹ nhà nước là công ty do Nhà nước quyết định thành lập và đầu tư
100% vốn điều lệ.
Cho đến nay, khái niệm về công ty mẹ, công ty con ở các nước cũng đã thay đổi
theo thời gian và không gian.
Theo diễn giải của chuẩn mực kế toán quốc tế ISA (International Accounting
Standard), công ty mẹ (Parent company) là một thực thể pháp lý có ít nhất một đơn vị trực
thuộc - công ty con (Subsidiary). Công ty con là thực thể pháp lý bị kiểm soát bởi công ty
mẹ. Kiểm soát ở đây được hiểu là: (1) sở hữu trực hoặc gián tiếp nhiều hơn 50% số phiếu
bầu; hoặc (2) sở hữu 50% số phiếu bầu hoặc ít hơn nhưng nắm quyền đối với hơn 50% số
phiếu bầu theo sự thỏa thuận với các cổ đông khác; hoặc nắm quyền lãnh đạo, điều hành
liên quan đến các chính sách tài chính hay sản xuất kinh doanh của công ty và được qui
định tại điều lệ, theo sự thỏa thuận hay hợp đồng; hoặc có quyền bổ nhiệm hay miễn
nhiệm phần lớn các thành viên của Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo; hay có quyền quyết
định, định hướng đến phần lớn số phiếu bầu tại các cuộc họp Hội đồng quản trị, ban lãnh
đạo.
Theo Luật công ty của Anh năm 1985, công ty mẹ được hiểu là công ty nắm cổ phần
khống chế (trên 50%) ở công ty khác (công ty con). Tuy nhiên, theo tu chính năm 1989 để
phù hợp với "Hướng dẫn chính thức lần thứ 7 về Luật công ty" (Seventh Company Law
Directive) của Cộng đồng châu Âu (EC) thì (A) là công ty mẹ của công ty con (B) khi: (1)
A là cổ đông nắm giữ đa số phiếu bầu ở B; (2) A là cổ đông và có quyền bổ nhiệm, miễn
nhiệm phần lớn thành viên HĐQT của B; (3) A có quyền quyết định về chính sách tài
chính và sản xuất kinh doanh của B bằng sự thỏa thuận chính thức, hợp đồng; (4) A là cổ
đông của B và có quyền kiểm soát phần lớn phiếu bầu một cách độc lập hay liên kết với
các cổ đông khác; hoặc (5) A có quyền lợi tham gia điều hành (participating interest - được
hiểu là nắm giữ từ 20% cổ phần) và trên thực tế thực hiện quyền chi phối đối với B hoặc A
và B có cùng một cơ chế quản lý thống nhất. Ngoài ra, nếu giữa B và C có quan hệ tương
tự như A và B thì giữa A và C có quan hệ như mô hình trên (công ty mẹ - công ty con).
Theo Luật công ty của Liên bang Nga năm 1995, một công ty được gọi là công
ty con (tiếng Nga gọi là Dotchernie) nếu do một công ty khác - công ty mẹ (Osnovnoe)
nắm giữ cổ phần khống chế trong vốn điều lệ hoặc bị công ty khác chi phối các quyết
định của mình hoặc bằng một thỏa thuận chính thức hay dưới hình thức nào đó. Luật
không qui định một cách cụ thể thế nào là cổ phần khống chế và không nêu cụ thể hình
thức hợp đồng, thỏa thuận như thế nào liên quan đến việc chi phối các quyết định của
công ty con [22].
Tuy cách diễn giải có khác nhau, có thể rút ra những đặc trưng của quan hệ công
ty mẹ - công ty con là:
Thứ nhất, công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc lập, có sản nghiệp
riêng (pháp nhân kinh tế đầy đủ);
Thứ hai, công ty mẹ có lợi ích kinh tế nhất định liên quan đến hoạt động của công
ty con;
Thứ ba, công ty mẹ chi phối đối với các quyết định liên quan đến hoạt động của
công ty con thông qua một số hình thức như quyền bỏ phiếu chi phối đối với các quyết
định của công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo
hoặc quyền tham gia quản lý, điều hành;
Thứ tư, vị trí công ty mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty với
nhau và mang tính tương đối, tức công ty con này có thể là công ty mẹ của một công ty
khác (tính tương đối này càng nổi bật hơn trong trường hợp các công ty trong một nhóm có
nắm giữ vốn cổ phần qua lại của nhau, thí dụ như theo mô hình của các tập đoàn của
Nhật);
Thứ năm, trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con nói chung là trách
nhiệm hữu hạn;
Thứ sáu, về mặt lý thuyết, mô hình quan hệ này sẽ tạo cho cơ cấu tổ chức của các
công ty trong nhóm có chiều sâu không hạn chế; tức công ty mẹ, con công ty con, công ty
cháu...
Một vấn đề cần lưu ý là, mặc dù công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý
độc lập, và nếu công ty con là công ty có trách nhiệm hữu hạn thì công ty mẹ chỉ chịu
trách nhiệm đối với phần vốn góp hay cổ phần của mình mà thôi, nhưng do mối quan hệ có
tính chất chi phối các quyết định của công ty con, nên luật pháp nhiều nước bắt buộc công
ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về những ảnh hưởng của công ty mẹ đối với công ty
con. Thí dụ, Luật công ty của Cộng hòa Liên bang Nga qui định nếu công ty mẹ đưa ra chỉ
thị buộc công ty con phải thực hiện theo một cam kết nào đó giữa công ty mẹ và công ty
con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới.
Ngoài ra, theo luật pháp của nhiều nước và theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì
công ty mẹ phải có trách nhiệm trình báo cáo tài chính tập trung hay hợp nhất
(Consolidated financial statement) tại đại hội cổ đông của công ty mẹ, trừ trường hợp công
ty mẹ là công ty con của một công ty khác hoặc hoạt động của công ty con quá khác biệt
với công ty mẹ; bởi lẽ, dù là hai thực thể pháp lý độc lập nhưng trên thực tế chúng là
những công ty liên kết (affiliated), một thực thể kinh tế hợp nhất [22].
Mô hình công ty mẹ - công ty con có nhiều ưu điểm cả về cơ cấu tổ chức và cơ
chế quản lý, đặc biệt là đối với những nhóm doanh nghiệp có qui mô lớn như các tập đoàn
kinh tế xuyên quốc gia và đa quốc gia. Đó là:
Thứ nhất, theo mô hình này, khi một đơn vị kinh doanh chiến lược của một doanh
nghiệp phát triển đến mức yêu cầu phải có sự tự chủ trong hoạt động, thì các doanh nghiệp
có xu hướng tách đơn vị kinh doanh chiến lược này thành một thực thể pháp lý độc lập, và
về mặt pháp lý không chịu trách nhiệm liên quan đến hoạt động của nó. Chính với trách
nhiệm hữu h