Luận văn Chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Khái n iệm  Lãi  suất  là  cái  giá  phải  trả  cho   việc  sử  dụng  vốn   trên   một   thị  trường  b ất  k ỳ ,  lãi suất vươn tới một mức  cân b ằn g sao  cho tổng cầu về vốn  bằng tổn g cung về vốn.  Hay  nói   cách   khác,  lãi  suất  là  giá  cả  củ a  qu y ề n  sử  dụng  một  đ ơn  vị  vốn  va y   tro ng  một  khoảng  thời  gian  nh ất đ ịnh .Lãi  suất  cao   ha y   th ấp  do quan hệ  giữ a  cun g  và  cầu  vốn qu y ết định .  1 .1.1 .2 Phân lo ại lãi suất  Trong phạm vi nghiên cứu củ a đ ề tài  có các cách phân loại nh ư sau  :  v  Ph ân  loại th eo tính  chất củ a khoản  vay  Lãi  su ất  chiết  kh ấu :  áp  dụng  khi  n gân  hàng  cho   khách   hàng  vay  d ưới  h ình  thức  chi ết khấu  thương ph iếu  ho ặc  các  giấ y  tờ   có  giá khác  chư a đ ến   hạn  th anh  to án  của kh ách h àn g. Nó được tín h b ằn g tỷ  lệ phần trăm  trên  mệnh giá của giấ y  tờ có giá  Lãi  suất  t ái  chiết  khấu:  áp  dụng  khi  NHTW  cho   các  ngân   h àn g  trun g  gian  vay dưới hình th ức ch iết khấu lại các th ương ph iếu  ho ặc các giấ y  tờ có giá n gắn hạn  chưa đến  hạn   thanh   toán của  các ngân hàng n ày. Nó  cũng đư ợc t ính  bằng tỷ   lệ phần  trăm trên mệnh giá củ a giấy  tờ  có giá.

pdf87 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2175 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ­ 1 ­  CHƯƠNG1:LÃI SUẤT&CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ  1.1 Lý luận cơ bản về lãi suất trong nền kinh tế  1.1.1 Khái niệm và phân loại lãi suất  1.1.1.1 Khái niệm  Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ,  lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn bằng tổng cung về vốn.  Hay nói cách khác,  lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong  một khoảng thời gian nhất định.Lãi suất cao hay thấp do quan hệ giữa cung và cầu  vốn quyết định.  1.1.1.2 Phân loại lãi suất  Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có các cách phân loại như sau :  v  Phân loại theo tính chất của khoản vay  Lãi  suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình  thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán  của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá  Lãi  suất  tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng  trung gian  vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn  chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần  trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.  Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau  vay  trên  thị  trường  liên ngân hàng. Lãi  suất  liên ngân hàng được hình  thành qua  quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi  suất cho các ngân hàng trung gian vay của NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc  vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW  của các ngân hàng trung gian.  Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định  mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy  từng nước, nó có thể do NHTW ấn định (như ở Nhật); hoặc có  thể do tự bản thân  các  ngân hàng  tự  xác định  căn cứ  vào  tình hình hoạt động  cụ  thể  của ngân hàng ­ 2 ­  mình (ở Mỹ, Anh, Úc); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng  đứng đầu  rồi cộng (+) hoặc trừ (­ ) biên độ dao động theo một tỷ lệ % nhất định để  hình  thành  lãi suất cơ bản của mình  (Malaysia) vv…Mặt dù  khác nhau nhưng  lãi  suất  cơ  bản của hầu hết các nước đều hình  thành  trên cơ  sở  thị  trường và  có một  mức lợi nhuận bình quân cho phép.  v  Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi  Lãi suất danh nghĩa:  là  lãi suất  tính  theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay  nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.  Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm  phát, hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Quan hệ giữa lãi  suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ảnh bằng phương trình Fisher:  Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát  Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất  thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận  được hay chí phí thực của việc vay tiền. Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất  danh nghĩa có một ý nghĩa quan  trọng bởi lẽ chính lãi suất thực chứ không phải lãi  suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư.  v  Phân loại theo loại tiền cho vay  Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ  Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ  Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là: iD = iF + ΔE ;Trong đó: iD là lãi suất nội  tệ, iF là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính của đồng ngoại tệ.  1.1.2  Các nhân tố tác động đến lãi suất  1 2.1.1 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn  Lãi suất được xem là giá cả của quyền sử dụng vốn vay do vậy nó sẽ được  xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường.Cung vốn vay là khối  lượng vốn dùng để  cho vay kiếm  lời của các chủ  thể  khác nhau  trong xã hội.Cầu  vốn vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ  thể khác nhau trong nền kinh tế. ­ 3 ­  Lãi suất  i  O  LS ­ lượng cung vốn vay  LD ­ lượng cầu vốn vay  Cung cầu vốn vay  Hình 1.1: Quan hệ giữa cung cầu vốn và lãi suất  Đường cung cầu vốn vay nói  trên cho các nhà kinh tế học một mô hình để  xác định lãi suất thị trường, được gọi là mô hình “khuôn mẫu tiền vay”. Điểm cân  bằng cung cầu vốn vay tại một thời điểm xác định mức lãi suất thị trường.Các nhân  tố ảnh hường đến lãi suất thị trường bao gồm:  v  Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cung vốn  Tài sản và thu nhập: trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế thu nhập tăng  và do đó tài sản của các chủ thể kinh tế tăng lên, làm tăng khả năng cung ứng vốn.  Rủi ro: nếu như rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên thì việc cho vay trở nên  kém hấp dẫn, cung vốn vay giảm xuống.  v  Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cầu vốn  Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư: càng có nhiều cơ hội đầu tư  sinh lợi thì càng làm tăng nhu cầu đi vay. Điều này thường thấy trong điều kiện nền  kinh tế tăng trưởng. Khi kinh tế tăng trưởng, các cơ hội đầu tư sinh lời tăng lên làm  cho nhu cầu vay vốn tăng mạnh. Mặt khác,  trong điều kiện kinh tế phát  triển, của  cải cũng tăng lên và sẽ kích thích tăng cung vốn vay. Vậy lãi suất sẽ tăng hay giảm?  Trong thực tế thì lãi suất cân bằng trong những điều kiện như vậy thường tăng lên  do hiệu ứng tăng cung vốn vay từ tăng của cải diễn ra chậm hơn tăng cầu vốn vay  do nền kinh tế tăng trưởng nhanh.  Lạm phát dự  tính: chi phí  thực của việc vay  tiền được xác định chính xác  hơn bằng lãi suất thực, nó bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Với một ­ 4 ­  mức lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay  tiền giảm xuống, điều này làm tăng nhu cầu vay vốn.  Khi  lạm phát dự  tính tăng lên,  lợi  tức dự  tính của việc cho vay so với việc  đầu tư vào các tài sản hữu hình giảm xuống tại mọi mức lãi suất làm cho cung vốn  vay giảm. Lạm phát dự tính xảy ra cũng làm cho chi phí thực của việc vay tiền giảm  dẫn đến nhu cầu vay vốn  tăng  lên. Kết quả  là  lãi  suất cân bằng  tăng. Nhà kinh  tế  học Irving Fisher là người đầu tiên đã nêu ra sự liên hệ giữa lạm phát dự tính với lãi  suất vì vậy mối liên hệ đó còn được gọi là hiệu ứng Fisher.  Tình hình ngân sách chính phủ: vì chính phủ các nước hiện nay có xu hướng  tài  trợ cho thâm hụt ngân sách bằng đi vay nên tình trạng thâm hụt ngân sách của  chính phủ sẽ tác động đến nhu cầu vay vốn của chính phủ và do đó tác động đến  nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.  1.1.2.2  Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ  Ứng với mỗi một mức cung cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng  tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền  tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường.  Lãi suất  MS1     MS2  i1  MD  i2  Cung cầu tiền  Hình 1.2 : Mô hình khuôn mẫu ưa thích tiền mặt  Để phân tích sự ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ tới mức lãi suất cân bằng ,  mô hình “khuôn mẫu ưa thích tiền mặt” ở hình trên được sử dụng. Khuôn mẫu ưa  thích tiền mặt cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ  dịch chuyển.  v  Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền ­ 5 ­  Thu nhập: thu nhập tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch  và là nơi cất giữ giá trị, do đó làm cho lượng cầu tiền tăng lên và ngược lại.  Mức giá: những thay đổi của mức giá sẽ làm cầu về tiền thực tế thay đổi nếu  cầu  tiền danh nghĩa chưa thay đổi.Do nền kinh tế có xu hướng cầu một lượng tiền  thực tế không đổi ứng với một mức lãi suất và thu nhập nhất định nên cầu tiền danh  nghĩa sẽ phải thay đổi theo mức giá để đảm bảo ổn định cầu tiền thực tế. Kết quả là  là một sự gia tăng lên của mức giá sẽ làm lượng cầu tiền tăng lên.  v  Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền  Cung  tiền  trong nền kinh  tế hiện nay phần  lớn chịu  sự  tác động của CSTT  của các NHTW. Cung tiền thay đổi, ngoài những hoạt động nhằm thực thi mục tiêu  của CSTT ra, còn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phụ thuộc của NHTW vào chính phủ  và chế độ tỷ giá hối đoái của nước đó. Nếu sự phụ thuộc của NHTW vào chính phủ  cao thì tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo sức ép khiến NHTW phải  in thêm tiền mua các chứng khoán chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách,  dẫn đến tăng cung tiền. Thêm vào đó, một chế độ tỷ giá hối đoái cố định đòi hỏi sự  can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại  tệ, và do vậy cũng sẽ ảnh hướng đến cung tiền.  1.1.2.3 Các nhân tố khác  Tỷ lệ  lạm phát: nhân tố này có  ảnh hưởng rất  lớn đến sự biến động của lãi  suất. Bởi lẽ sự tăng hay giảm tỷ lệ lạm phát kéo theo sự biến động của giá trị tiền tệ,  từ đó ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người cho vay. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì  lãi suất phải tăng theo. Lúc đó, các TCTD mới thu hút được nguồn vốn tiền gửi. Khi  tỷ  lệ  lạm phát  giảm  thì  lãi  suất  tín dụng  cũng giảm. Để đảm bảo hạch  toán  kinh  doanh  cho  các  TCTD.Ngược  lại,  NHTW  sử  dụng  lãi  suất  tín  dụng  làm  công  cụ  kiềm chế lạm phát. Khi lạm phát tăng cao, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi  để làm hạ cơn sốt lạm phát.  Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế: hoạt động của các doanh nghiệp  là nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh  tế là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng hợp lý. Thông thường mức lãi suất tín dụng ­ 6 ­  nhỏ hơn tỷ suất  lợi nhuận bình quân. Đó  là hài hòa lợi  ích người đi vay và người  cho vay.  Chính sách kinh tế của Nhà nước: bằng các chính sách kinh tế, Nhà nước can  thiệp vào thị trường tín dụng, nhằm duy trì sự vận động của lãi suất phù hợp với yêu  cầu phát triển kinh tế ­ xã hội. Các chính sách ưu đãi cho vay tác động trực tiếp đến  lãi suất, chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, cho vay trọng điểm vv…  1.1.3 Cấu trúc lãi suất tín dụng  Cấu trúc của lãi suất tín dụng được chia thành hai loại :  ­ Cấu trúc rủi ro: là những khoản vay có cùng kỳ hạn, nhưng có mức lãi suất  khác nhau.Các nhân tố quan trọng trong việc xác định cấu trúc rủi ro là rủi ro vỡ nợ,  tính lỏng của giấy nhận nợ và chính sách thuế thu nhập của người cho vay.  ­ Cấu trúc kỳ hạn: kỳ hạn thanh toán của một khoản cho vay có tác động đến  lãi suất của nó. Mối tương quan của lãi suất những khoản cho vay có kỳ hạn thanh  toán khác nhau được gọi là cấu trúc kỳ hạn của lãi suất. Đối với những khoản cho  vay có kỳ hạn ngắn thì có mức lãi suất thấp và những khoản cho vay có kỳ hạn dài  thì có mức lãi suất cao. Mức chênh lệch lãi suất của hai khoản vay đó là để bù đắp  rủi ro trong thời gian cho vay.  Mối liên hệ giữa thời gian và lợi suất của một khoản vay khi được thể hiện  dưới dạng đồ thị có hình dạng là một đường cong, còn gọi là đường cong lãi suất.  Lợi suất  Đáo hạn  (YTM)  Đường cong lãi suất  Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn  Nói cách khác, đi vay ngắn hạn rẻ hơn vay  dài hạn  Thời gian đáo hạn  Hình 1.3 : Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất (đường cong lãi suất) ­ 7 ­  ­ Các lý thuyết về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất giải thích sự đa dạng của các  đường lãi suất như : ·  Lý thuyết môi trường ưu tiên và phí thanh khoản giải thích đường cong  lãi suất thường có hình dạng dốc lên do các nhà đầu tư ưa thích trái phiếu ngắn hạn  hơn trái phiếu dài hạn, nên sẵn sàng trả thêm khoản phí thời hạn K>0. Vì vậy, ngay  cả khi lãi suất ngắn hạn dự tính, tính bình quân, không tăng thì lãi suất dài hạn vẫn  cao hơn lãi suất ngắn hạn và làm cho đường cong lãi suất thường dốc lên. ·  Lý thuyết dự tính giải thích lãi suất khi lãi suất ngắn hạn thấp, đường lãi  suất  có hình dạng dốc  lên  trên. Khi  lãi  suất ngắn hạn cao, đường  lãi  suất có hình  dạng dốc xuống. Vì khi lãi suất ngắn hạn thấp, mọi người  thường dự tính rằng lãi  suất ngắn hạn sẽ tăng lên một mức tương đối hợp lý trong tương lai và trung bình  các lãi suất ngắn hạn trong tương lai sẽ cao hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại . Vì vậy  lãi  suất dài hạn  (là  trung bình các  lãi  suất ngắn hạn)  sẽ cao hơn  lãi  suất ngắn hạn  hiện tại và làm cho đường lãi suất dốc lên. Ngược lại, khi lãi suất ngắn hạn khá cao,  mọi  người  thường dự báo  là  lãi  suất này  sẽ  trở  về một mức bình  thường nào  đó  trong tương lai. Khi này lãi suất dài hạn sẽ thấp hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại do lãi  suất dài hạn là trung bình các lãi suất ngắn hạn.  1.1.4 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế  1.1.4.1 Kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm  Thông thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến  việc sinh lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng,  gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng và các TCTD khác vv…Một trong những hình  thức đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là gửi tiền vào ngân hàng. Để  thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, lãi suất là một trong những  biện pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng.  1.1.4.2 Lãi suất  là công cụ phân phối vốn, kích thích sử dụng vốn có hiệu quả và  điều chỉnh các hoạt động đầu tư.  Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là công cụ quan trọng  để phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh tế từng thời kỳ. ­ 8 ­  chính sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận  bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng  sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay  ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng làm tổng thu nhập quốc dân tăng lên .  Mặt khác,  lãi suất  là căn cứ để các chủ  thể kinh  tế  lựa chọn cơ hội đầu  tư.  Doanh nghiệp  chỉ  kinh doanh khi  tỷ  suất  lợi nhuận  cao hơn  lãi  suất  tín dụng. Cá  nhân chỉ gửi tiết kiệm khi lãi suất đem lại cao hơn món đầu tư khác và cao hơn tỷ lệ  lạm phát. Như vậy, lãi suất tín dụng làm thay đổi tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của  doanh nghiệp và cá nhân, đồng nghĩa với việc là họ mở rộng hay thu hẹp đầu tư.  1.1.4.3 Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế  Mỗi một  sự  biến động, dù  là nhỏ  nhất  cũng ảnh hưởng đến hoạt động  của  mỗi cá nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái  khoán và lãi suất được yết giá hàng ngày. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động  của lãi suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ  hội  đầu  tư, mức  lạm  phát  dự  tính, mức  thiếu  hụt  ngân  sách.Các  yếu  tố  này  hợp  thành chỉ  tiêu “sức khỏe” của nền kinh  tế. Người  ta có  thể dựa vào  lãi  suất  trong  một  thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế  trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh  nghiệp lập kế hoạch chỉ tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các  nhà đầu tư cần dự báo lãi suất để quyết định xem chon mua tài sản nào.  1.1.4.4 Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW  Lãi suất tín dụng là một công cụ thực hiện CSTT, thể hiện trên các mặt:  ­ Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTW có thể tăng lãi suất  tiền  gửi để rút  tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ  lạm phát,  tạo điều kiện để sức mua  của ổn định, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi  nền kinh tế đã suy thoái, NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để chống suy  thoái và lãi suất giảm xuống.  ­ Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với  các NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở  rộng hay thu hẹp sản xuất, tăng hay giảm công ăn việc làm. ­ 9 ­  ­ Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm số lượng  ngoại tệ trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự  thay đổi tỷ giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.  1.2 Lãi suất, đầu tư và tăng trưởng kinh tế  Lãi suất tác động đến  tăng trưởng  thông qua hai hiệu ứng đó  là  lãi suất  tác  động đến tiêu dùng và đầu tư.  v  Tác động của lãi suất đến tiêu dùng  Mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích tiêu dùng nhiều hơn là tiết kiệm từ đó làm  tăng tổng cầu trong nền kinh tế, và ngược lại khi  lãi suất  tăng dân chúng sẽ có xu  hướng dành phần lớn thu nhập để gửi tiết kiệm vào ngân hàng, từ đó làm giảm tổng  cầu. Do xu  hướng  cân  bằng  cung  cầu  trong  nền  kinh  tế,  tổng  cung  sẽ  giảm một  lượng tương ứng. Lúc đó GDP thực sẽ giảm dưới mức năng lực sản xuất tối ưu và  tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên, nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng suy thoái.  v  Tác động của lãi suất đến đầu tư  Khi nền kinh  tế  tăng  trưởng sẽ khuyến khích đầu  tư mở  rộng sản xuất.Chi  tiêu cho đầu  tư  là chi  tiêu của khu vực sản xuất để mua nhà xưởng,  thiết bị, máy  móc mới  và  gia  tăng  lượng hàng  tồn  kho nhằm gia  tăng  qui mô  sản xuất. Có  rất  nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho đầu tư, song có ba nguyên nhân chính  đó là: lãi suất, lạm phát dự tính, lợi nhuận dự tính.  Về mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư, mức lãi suất càng thấp thì mức đầu tư  càng cao và ngược lại. Điều này có thể giải  thích là khi đầu tư, nguồn vốn có thể  được tài  trợ bằng vốn  tự có hay đi vay mượn. Bất  luận dự án đầu  tư được tài  trợ  bằng phương thức nào, mức lãi suất cũng là một phần chi phí cơ hội của dự án đó.  Tiền trả  lãi cho khoản tiền vay để đầu tư cho sản xuất  là chi phí trực tiếp. Nhưng  nguồn vốn tự có của một doanh nghiệp có thể dùng để cho vay với một mức lãi suất  nào đó. Tiền lãi mà doanh nghiệp bị mất khi sử dụng nguồn vốn tự có để tài trợ cho  dự  án  riêng  của  chính mình,  thay  vì dùng để cho  vay  được gọi  là  chi phí  cơ hội.  Mức lãi suất càng thấp thì chi phí cơ hội của dự án càng thấp, càng có nhiều dự án  đầu tư mang lại lợi nhuận và vì vậy mức đầu tư sẽ gia tăng. ­ 10 ­  Trong khi mức  lãi suất cao không khuyến khích đầu  tư  thì ngược  lại, mức  lạm phát dự đoán cao có tác dụng khuyến khích đầu tư vì chi phí đầu tư thường bỏ  ra hầu hết ở năm đầu nên không bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Mức lạm tăng sẽ làm  cho thu nhập ròng của dự án đầu tư trong những năm sau gia tăng.Do đó có một kết  luận rất quan trọng của những tác động ngược chiều này đối với quyết định đầu tư  của các doanh nghiệp. Đó là đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực. Mức lãi suất thực  càng thấp thì mức đầu tư càng cao.  Lãi suất thực  i1  i2  I1  I2  Đầu tư  Hình 1.4: Mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư  GDP là giá trị  tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng  nội địa mà nền kinh tế đạt được trong một thời kỳ nhất định. Bao gồm sản phẩm và  dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình, đầu tư của khu vực doanh nghiệp, tiêu dùng của  khu vực Chính phủ và xuất khẩu  ròng. Tổng chi  tiêu  trong nền kinh  tế  luôn bằng  với GDP thực để nền kinh tế đạt ở trạng thái cân bằng.  Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô  sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Hiện nay, người  ta thường  tính mức gia  tăng về  tổng giá  trị  của cải xã  hội bằng các đại  lượng như  tổng sản  phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).  Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào do tác động của ba yếu tố: số lượng vốn  đầu tư, số lượng lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp. Để tăng trưởng một  cách bền vững thì một trong những điều kiện cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc  gia  là  phải mở  rộng  đầu  tư. Người  ta hay  nói  đến một  trong những nguyên nhân ­ 11 ­  chính làm cho kinh tế của năm con rồng Châu Á tăng trưởng nhanh trong một thời  gian dài là do vốn đầu tư phát triển tăng liên tục (chiếm khoảng 30% trong GDP).  Như vậy, một bộ phận của chi tiêu trong nền kinh tế là đầu tư lại phụ thuộc  vào lãi suất. Giả sử các nhân tố khác không đổi,  lãi suất càng cao thì đầu tư càng  thấp. Điều này dẫn chi  tiêu cân bằng giảm. Ngược  lại khi  lãi  suất  thực giảm  thúc
Tài liệu liên quan