Đất nước ta đang ở trong giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế x•
hội 2001-2010 đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững, chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả. Trong đó,
chính sách tài chính -thuế có vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi ngành thuế phải tập
trung nghiên c ứu và đề ra các biện pháp công tác cụ thể, phải tạo cho được sự
chuy ển biến mới, có hiệu quả thiết thực trên các mặt công tác của mình.
Thời gian qua công tác quảnlý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể có
nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của
các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho ngân sách. Tuy nhiên, tiềm năng
vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao hơn. Tình trạng thất thu tuy có
giảm nhưng vẫn còn tình trạng quản lý không hết hộ kinh doanh, doanh thu tính
thuế không sát thực tế, dây dưa nợ đọng thuế còn nhiều … Vì vậy, vấn đề mang tính
cấp thiết đặt ra cho Ngành Thuế là phải tìm cho được các giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Tình hình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế Hai
Bà Trưng cũng nằm trong thực trạng chung đó. Qua thực tập ở Chi cục Thuế Hai Bà
Trưng, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Thuế sản xuất kinh doanh và Quản lý
thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế". Đề tài tập trung phân tích
thực trạng quản lý, trên cơsở đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế chỉ ra
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp.
105 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đa dạng trong các loại hình thuế và biện pháp quản lý tránh những khó khăn cho hộ kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Đa dạng trong các loại hình
thuế và biện pháp quản lý tránh những
khó khăn cho hộ kinh doanh
Lời mở đầu
Đất nước ta đang ở trong giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế x•
hội 2001-2010 đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững, chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả. Trong đó,
chính sách tài chính - thuế có vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi ngành thuế phải tập
trung nghiên cứu và đề ra các biện pháp công tác cụ thể, phải tạo cho được sự
chuyển biến mới, có hiệu quả thiết thực trên các mặt công tác của mình.
Thời gian qua công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể có
nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của
các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho ngân sách. Tuy nhiên, tiềm năng
vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao hơn. Tình trạng thất thu tuy có
giảm nhưng vẫn còn tình trạng quản lý không hết hộ kinh doanh, doanh thu tính
thuế không sát thực tế, dây dưa nợ đọng thuế còn nhiều … Vì vậy, vấn đề mang tính
cấp thiết đặt ra cho Ngành Thuế là phải tìm cho được các giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Tình hình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế Hai
Bà Trưng cũng nằm trong thực trạng chung đó. Qua thực tập ở Chi cục Thuế Hai Bà
Trưng, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Thuế sản xuất kinh doanh và Quản lý
thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế". Đề tài tập trung phân tích
thực trạng quản lý, trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế chỉ ra
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp.
Về kết cấu đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá
thể.
Chương II: thực trạng công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại
chi cục thuế.
Chương III: Thuế sản xuất kinh doanh và giải pháp tăng cường quản lý thu thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế hai.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - Ts. Vũ Duy Hào cùng các cô chú
trong Chi cục Thuế Hai Bà Trưng đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
1.1. Vai trò của kinh tế cá thể đối với nền kinh tế:
1.1.1. Quan điểm của Nhà nước về thành phần kinh tế cá thể:
Sau hơn một thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới cùng với sự chuyển biến to lớn
của nền kinh tế, thành phần kinh tế cá thể đã được "khai sinh trở lại" từng bước phát
triển và ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều thành
phần dưới sự quản lý của Nhà nước.
Vào những năm trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế cá thể được coi là
"hàng ngày hàng giờ" đẻ ra tư bản chủ nghĩa, vì vậy luôn là đối tượng cải tạo của xã
hội chủ nghĩa và không được khuyến khích phát triển.
Đến Đại hội Đảng Toàn quốc Lần thứ VI, Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường có
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế - trong đó có thành phần kinh tế cá thể.
Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng VII "Nền kinh tế Việt
Nam là nền kinh tế nhiều thành phần, thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá
độ ở nước ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế tư bản Nhà nước ...". Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan
tương ứng với tổ chức và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn
hiện nay (điều kiện sản xuất nhỏ, phân công lao động đang ở trình độ thấp) nên
quan hệ sản xuất được thiết lập từng bước từ thấp đến cao, đa dạng hoá về hình thức
sở hữu. Trong đó kinh tế cá thể gồm những đơn vị kinh tế và hoạt động sản xuất
kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Nếu như thành
phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo nắm giữ nhiều bộ phận then chốt thì
thành phần kinh tế cá thể nói riêng và kinh tế ngoài quốc doanh nói chung tuy
chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng ngày càng phát triển và chiếm một vị trí xứng đáng
trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cá thể không những tạo ra một lượng sản phẩm
không nhỏ trong tổng sản phẩm xã hội mà nguồn thu từ thành phần kinh tế này vào
Ngân sách Nhà nước cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, đồng thời còn thu hút
được một lực lượng lớn lao động nhàn rỗi đáp ứng mọi yêu cầu của xã hội mà thành
phần kinh tế quốc doanh chưa đảm bảo hết, tạo thu nhập và từng bước góp phần
nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân.
Như vậy, thành phần kinh tế cá thể vẫn còn tồn tại như một tất yếu khách quan, bắt
nguồn từ nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội. Với quan điểm đó, hoạt động của
thành phần kinh tế cá thể ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
trong hiện tại và tương lai.
1.1.2. Đặc điểm của thành phần kinh tế cá thể.
Thành phần kinh tế cá thể là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dựa
vào vốn và sức lao động của bản thân mình là chính. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, kinh tế cá thể phát triển rất nhanh trong cả nước, hoạt động trong mọi ngành
sản xuất, giao thông vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ. Đặc điểm của thành
phần kinh tế cá thể là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, người chủ kinh
doanh tự quyết định từ quá trình sản xuất kinh doanh đến phân phối tiêu thụ sản
phẩm. Hoạt động kinh tế cá thể mang tính tự chủ cao, tự tìm kiếm nguồn lực, vốn,
sức lao động. Thành phần kinh tế này rất nhạy bén trong kinh doanh, dễ dàng
chuyển đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường và nền
kinh tế.
Thành phần kinh tế cá thể có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông
thôn và thành thị, do đó nó có khả năng đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Những ưu thế của thành phần kinh tế cá thể là:
- Thành phần kinh tế cá thể có một tiềm năng to lớn về trí tuệ, sáng kiến, được phân
bổ rộng rãi ở mọi nơi, mọi lúc. Nhờ đó họ có thể phát huy được sáng kiến của mình
vào việc sản xuất và tìm tòi ra những hình thức kinh doanh thích hợp với nền kinh
tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến.
- Có tiềm năng về kinh nghiệm quản lý, tổ chức sản xuất, những bí quyết sản xuất
truyền thống được tích luỹ từ nhiều thế hệ. Điều này cho phép phát huy những
ngành nghề truyền thống để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xã hội và
xuất khẩu. Nó có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện đất nước còn thiếu vốn như
hiện nay. Thực tế những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc đã biết vận dụng đúng đắn
tiềm năng này và đã thành công trong quá trình phát triển kinh tế.
- Trong khi nguồn vốn của Nhà nước, của tập thể còn hạn hẹp thì nguồn vốn tiềm
năng trong dân lại rất lớn. Do đó, nếu có các chính sách kinh tế hợp lý sẽ mở đường
cho các hộ cá thể gia đình có khả năng bỏ vốn vào sản xuất, tiết kiệm trong tiêu
dùng để tích luỹ, mở rộng tái sản xuất góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh
chóng.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế cá thể đã thu hút một lực
lượng lao động đáng kể, góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho xã hội. ở nước ta
hàng năm có khoảng 1,5 đến 2 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động, bao
gồm nhiều loại hình như công nhân, kỹ sư, cử nhân kinh tế ... nhưng khả năng thu
hút lao động của khu vực nhà nước lại rất hạn chế, thậm chí dư thừa một số lao
động hiện có do sắp xếp lại quá trình sản xuất. Vì vậy, tình trạng người có sức lao
động nhưng chưa có việc làm và người có việc làm nhưng chưa sử dụng hết thời
gian lao động còn phổ biến. Với hình thức kinh doanh linh hoạt trong nhiều ngành
nghề và sử dụng công nghệ - kỹ thuật thủ công, khu vực kinh tế cá thể có khả năng
tận dụng lao động dôi thừa trong xã hội.
- Sự đa dạng trong loại hình sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế này cho phép
tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm, dịch vụ ở mọi nơi, mọi lúc, đáp ứng nhu cầu của
xã hội, đóng vai trò vệ tinh cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trên thực tế, có
những ngành nghề nếu tổ chức sản xuất tập thể hoặc do Nhà nước đảm nhiệm với
quy mô lớn sẽ không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp hơn so với việc tổ chức sản
xuất nhỏ ở các hộ gia đình.
Bên cạnh những ưu thế trên, thành phần kinh tế hộ cá thể cũng có một số mặt hạn
chế. Đặc điểm của hộ cá thể là làm ăn riêng lẻ, tản mạn, rời rạc và luôn tìm mọi
cách để tìm ra những chỗ sơ hở, non yếu trong quản lý kinh tế để kinh doanh trái
phép, trốn lậu thuế ... Dưới tác động của quy luật giá trị, thành phần kinh tế này rất
dễ bị phân hoá.
Sự năng động của thành phần kinh tế cá thể mang tính chất tự phát theo thị trường,
nếu thiếu sự định hướng thì sẽ không bao quát được nhu cầu thị trường.
Để phát huy được những tiềm năng vốn có và khắc phục được những khiếm khuyết
trên, cần phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đối với thành phần
kinh tế cá thể thông qua công cụ pháp luật, nhằm tạo ra hành lang pháp lý và môi
trường hoạt động lành mạnh, giúp thành phần kinh tế này hoạt động có hiệu quả
theo định hướng XHCN, trở thành một thành phần kinh tế trọng điểm đem lại hiệu
quả kinh tế và xã hội cho đất nước.
1.2. Công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
1.2.1. Các sắc thuế chủ yếu áp dụng đối với hộ kinh doanh:
Kể từ ngày 1/1/1999 thực hiện chương trình cải cách thuế bước hai, hệ thống thuế
của nước ta bao gồm 10 sắc thuế, trong đó có 4 sắc thuế chủ yếu áp dụng đối với hộ
kinh doanh.
1.2.1.1. Thuế môn bài:
Trong hệ thống thuế nước ta, thuế môn bài là một sắc thuế trực thu rất quen thuộc
với quần chúng, là thuế đăng ký kinh doanh được tính theo năm, mức thuế được áp
dụng theo số tuyệt đối căn cứ vào loại hình doanh nghiệp. Đối với hộ kinh doanh cá
thể, mức thuế môn bài được áp dụng 6 mức từ 50.000 đồng / năm đến 1.000.000
đồng/năm căn cứ vào mức thu nhập tháng của hộ kinh doanh.
Hộ ra kinh doanh vào thời gian 6 tháng đầu năm thì nộp mức thuế môn bài cả năm,
của 6 tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế môn bài cả năm. Hộ đang kinh doanh
thì nộp thuế môn bài ngay tháng đầu của năm dương lịch, hộ mới ra kinh doanh thì
nộp thuế môn bài ngay trong tháng bắt đầu kinh doanh.
Tuy số thu hàng năm của thuế môn bài luôn giữ một địa vị khiêm nhường so với số
thu các loại thuế khác nhưng đây lại là một tài nguyên tương đối vững chắc cho
ngân sách Nhà nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngay từ đầu
mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Một ưu điểm quan trọng nhất của thuế
môn bài là nó có giá trị chỉ dẫn cho thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Mọi tổ chức, cá nhân muốn kinh doanh đều phải đăng
ký kinh doanh và nộp thuế môn bài. Vì thế, thuế môn bài có tác dụng kiểm kê, kiểm
soát, các cơ sở kinh doanh nhằm hỗ trợ cho việc hành thu các loại thuế có số thu cao
như thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng.
1.2.1.2. Thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Thuế GTGT là loại thuế gián thu đánh vào phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các hộ có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ chịu thuế.
- Các hộ kinh doanh cá thể áp dụng đồng thời cả hai phương pháp tính thuế GTGT
là: phương pháp khấu trừ và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT.
+ Phương pháp khấu trừ: áp dụng đối với các hộ kinh doanh lớn chấp hành đầy đủ
chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, hạch toán được cả đầu vào,
đầu ra.
Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra x Khối
lượng hàng hoá bán ra xThuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ tương ứng
Thuế GTGT đầu vào là số thuế được ghi trên hoá đơn mua hàng của hàng hoá, dịch
vụ mà hộ đó mua vào.
+ Phương pháp trực tiếp: Theo phương pháp này có ba hình thức khác nhau.
Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ theo quy
định: Hàng hoá dịch vụ mua vào và bán ra đều có hoá đơn, chứng từ hợp lệ thì:
Thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá, dịch vụ x Thuế suất thuế GTGT
tương ứng
GTGT của hàng hoá, dịch vụ = Doanh số bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá,
dịch vụ mua vào
Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện chế độ lập hoá đơn, chứng từ khi bán hàng hoá,
dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào
thì:
Thuế GTGT phải nộp = Doanh số bán ra x Tỷ lệ GTGT x Thuế suất thuế
GTGT tương ứng
Đối với hộ kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn, chứng
từ khi mua bán hàng hoá, dịch vụ: Về nguyên tắc, những hộ loại này thường là
những hộ kinh doanh nhỏ, bán lẻ và kinh doanh nhiều mặt vụn vặt, hàng bán có thể
không có hoá đơn, chứng từ (vì chi phí cho hoá đơn chứng từ chiếm tỷ lệ cao trong
doanh số). Những hộ này nộp thuế GTGT như sau:
Thuế GTGT phải nộp = Doanh số ấn định x Tỷ lệ GTGT x Thuế suất thuế
GTGT
Bước sang năm 2003, luật thuế GTGT có một số sửa đổi:
- Giảm bớt số lượng mức thuế suất từ 4 mức xuống còn 3 mức, bỏ mức thuế suất
20%.
- áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các đối tượng
nộp thuế không đủ điều kiện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế thì nộp thuế theo
một tỷ lệ % trên doanh thu.
1.2.1.3. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).
Thuế TNDN là loại thuế trực thu tính trên phần thu nhập của doanh nghiệp sau khi
đã trừ đi các chi phí hợp lý, hợp lệ.
- Đối tượng nộp thuế TNDN là tất cả các hộ cá thể có hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ.
- Phương pháp tính thuế:
Số thuế TNDN phải nộp = Thu nhập chịu thuế x Thuế suất thuế TNDN
Thu nhập chịu thuế = Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế - Chi phí hợp lý +
Thu nhập khác
Các hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đúng chế độ kế
toán, hoá đơn, chứng từ, cơ quan thuế sẽ ấn định thu nhập chịu thuế để tính thuế
TNDN.
Sang năm 2003, thuế TNDN sẽ áp dụng thống nhất mức thuế suất chung cho mọi
đối tượng nộp thuế là 28%.
1.2.1.4. Thuế tiêu thu đặc biệt (TTĐB).
Thuế TTĐB là loại thuế gián thu đánh vào việc sản xuất và nhập khẩu một số loại
hàng hoá và dịch vụ thuộc diện đặc biệt.
- Đối tượng nộp thuế TTĐB là những hộ có sản xuất hàng hoá, kinh doanh dịch vụ
mặt hàng thuộc diện chịu thuế TTĐB.
- Phương pháp tính thuế:
Số thuế TTĐB phải nộp = Giá bán 1+ thuế suất x Lượng sản phẩm tiêu thụ x
Thuế suất thuế TTĐB
- Thuế TTĐB đầu vào (nếu có)
Đối với các hộ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đúng chế độ kế toán,
hoá đơn, chứng từ thì cơ quan thuế sẽ ấn định thuế TTĐB phải nộp.
Bước sang năm 2003, một số hàng hoá, dịch vụ hiện đang chịu thuế GTGT ở mức
cao và một số hàng hoá, dịch vụ cần điều tiết để hướng dẫn tiêu dùng sẽ được bổ
sung vào diện chịu thuế TTĐB. Các mức thuế suất sẽ được thu gọn lại, đồng thời
điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TTĐB phù hợp với việc đánh giá GTGT vào
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB.
1.2.2. Mục đích, yêu cầu của công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh.
Công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh nhằm đạt được các mục đích cơ
bản sau:
- Tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
ở nước ta, số thu bằng thuế hàng năm chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số thu của
NSNN. Số thuế thu được từ khu vực kinh tế cá thể tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng thu nhập ngân sách nhưng đây lại là lĩnh vực phức tạp, khó quản lý. Vì vậy,
làm tốt công tác quản lý thu thuế đối với hộ cá thể sẽ có tác dụng động viên, tăng
thu cho NSNN.
- Thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước đối với khu vực kinh tế này.
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song, những vai trò đó
không mang tính khách quan, mà nó là kết quả của những tác động từ phía con
người. Những tác động này được thực hiện thông qua những nội dung, những công
việc cụ thể của công tác quản lý thuế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các hộ kinh doanh.
Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các luật thuế
cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức chấp hành các luật
thuế được nâng cao, từ đó tạo thói quen "Sống và làm việc theo pháp luật" trong
mọi tầng lớp dân cư.
Yêu cầu của công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh có thể khái quát như
sau:
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục sâu rộng thường xuyên các luật thuế và các văn
bản dưới luật để đối tượng nộp thuế hiểu và tự giác chấp hành.
- Tận thu, khai thác triệt để các nguồn thu, kết hợp nuôi dưỡng nguồn thu:
+ Thu hết số thuế ghi thu, không để nợ đọng.
+ Kiểm tra, giám sát chặt chẽ hộ nghỉ kinh doanh.
+ Quản lý hết các đối tượng tham gia sản xuất, kinh doanh (gồm cố định có
cửa hàng - cửa hiệu và đối tượng kinh doanh vãng lai).
+ Quản lý sát doanh thu thực tế của đối tượng nộp thuế (thường xuyên kiểm tra
sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ ..., rà soát điều chỉnh thuế hộ khoán ổn định).
- Phải thực hiện đầy đủ, đúng quy trình nghiệp vụ của ngành đã đề ra cho từng loại
đối tượng kinh doanh.
1.2.3. Quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh.
Căn cứ vào các quy định về tổ chức bộ máy ngành thuế, các tổ, đội và đối tượng
thuộc Chi cục Thuế liên quan trực tiếp đến quy trình quản lý thu thuế là:
Lãnh đạo Chi cục Thuế.
Tổ Kế hoạch - Nghiệp vụ (KH-NV).
Các Đội thuế xã, phường.
Tổ Kiểm tra
Tổ Quản lý ấn chỉ.
Trong đó, ba bộ phận chính trực tiếp thực hiện hành thu là: Tổ KH-NV, các đội thuế
và tổ kiểm tra.
Quy trình mô tả trình tự các bước thực hiện của các công việc sau:
1.2.3.1. Đăng ký thuế.
- Quản lý địa bàn:
Đội thuế có trách nhiệm phối hợp với chính quyền phường điều tra nắm chắc số hộ
có sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, nắm diễn biến hoạt động của các hộ như: hộ
mới ra kinh doanh, hộ nghỉ kinh doanh, di chuyển địa điểm kinh doanh, ... Đối với
hộ mới ra kinh doanh, đội thuế cấp phát tờ khai đăng ký thuế và hướng dẫn cách kê
khai để ĐTNT kê khai đăng ký thuế với cơ quan thuế.
- ĐTNT kê khai đăng ký thuế: Có 2 trường hợp:
+ Hộ ra kinh doanh lần đầu phải tiến hành kê khai đăng ký thuế để được cấp
mã số thuế.
+ Hộ trước đó đã được cấp mã số thuế nhưng nghỉ kinh doanh dài hạn, sau đó
lại ra kinh doanh lại vẫn phải thực hiện đăng ký nộp thuế lại với cơ quan thuế,
nhưng không cấp mã số thuế mới.
- Nhận tờ khai đăng ký thuế:
Đội thuế nhận tờ khai đăng ký thuế của các ĐTNT. Kiểm tra các chỉ tiêu kê khai và
trực tiếp liên hệ với ĐTNT chỉnh sửa tờ khai đăng ký thuế nếu có lỗi. Qua kiểm tra
tờ khai đăng ký thuế, nếu phát hiện ĐTNT chưa có giấy phép đăng ký kinh doanh
thì phải có biện pháp nhắc nhở hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý phạt
hành chính.
Đối với các ĐTNT mới ra kinh doanh lần đầu thì các Đội thuế lập Bảng kê tờ khai
theo mẫu số 01/NQD và tập trung tờ khai chuyển Tổ
KH-NV soát xét lại trước khi gửi về Cục Thuế để cấp mã số thuế. Đối với các tờ
khai đăng ký thuế đã có mã số thuế thì Tổ KH-NV ghi bổ sung sổ danh bạ để đưa
vào danh sách lập bộ thuế.
- Nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế:
Tổ KH-NV Chi cục Thuế nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế, các tờ khai đăng ký
thuế và bản danh sách ĐTNT được cấp mã số thuế của Chi cục từ Cục Thuế gửi về.
Căn cứ vào danh sách các ĐTNT được cấp mã số thuế từ Cục Thuế gửi về, Tổ KH-
NV lập sổ danh bạ thuế theo mẫu quy định. Sổ này luôn được cập nhật khi nhận
được danh sách mã số thuế từ Cục Thuế và thông báo hộ nghỉ, bỏ kinh doanh từ các
Đội thuế. Tổ KH-NV tổ chức lưu giữ các tờ khai đăng ký thuế của các ĐTNT theo
từng địa bàn và đội thuế. Đăng ký thuế lưu theo thời gian hoạt động của ĐTNT, chỉ
huỷ sau khi ĐTNT nghỉ kinh doanh trên 5 năm.
Tổ KH-NV chuyển các Giấy chứng nhận đăng ký thuế cùng bảng kê danh sách các
đối tượng được cấp mã số thuế cho các Đội thuế.
- Gửi Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho ĐTNT: