Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không
thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất.
Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng
phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất
lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của
trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan
trọng là nằm trong trí tuệ.
Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông
tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực
hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin.
Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản xuất thỡ mới nắm được quyền
hành. Công cụ sản xuất mà ngày nay người công nhân cần nắm để làm chủ lấy mỡnh
khụng phải là những cụng cụ “bỏ trong thựng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời
công nghiệp ống khói. Nó là thứ vật dụng nằm trong đầu óc của công nhân”
tin, tri thức, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực.
Thông tin, tri thức là thứ của cải không bao giờ hết. Nếu như đất đai, máy móc có
thể chỉ cấp được cho một số cá nhân thôi, thỡ thụng tin, tri thức cựng lỳc cú thể cú nhiều
người sử dụng. Và nếu vận dụng thích đáng thỡ cú thể lại sinh ra nhiều tri thức mới. Tri
thức lấy khụng bao giờ hết và dựng khụng bao giờ cạn.
Trong Hội thảo quốc tế về chủ đề “Sử dụng tri thức phục vụ phát triển”, Phó Thủ
tướng Phạm Gia Khiêm đó phỏt biểu rằng: “Hiện nay 2/3 dõn số trờn thế giới cũn sống
trong nghốo đói, lạc hậu bởi thiếu vốn, thiếu các nguồn lực để phát triển, đặc biệt là tri
thức khoa học – công nghệ”. Khoảng cách to lớn về tri thức, trong đó có tri thức khoa học
– công nghệ, sự bất bỡnh đẳng về tiếp cận thông tin đặt các nước đang và chậm phát triển
trước những nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tự nhận thức và tự đổi mới chính mỡnh để
A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.117.
xây dựng được năng lực tiếp thu kho tàng tri thức nhân loại, để vượt qua nghèo đói, lạc
hậu và tiến tới phát triển, tham gia vào sáng tạo tri thức mới.
121 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh họat động thông tin với việc
cải cách nền hành chính quốc gia trong
giai đọan hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không
thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất.
Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng
phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất
lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của
trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan
trọng là nằm trong trí tuệ.
Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông
tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực
hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin.
Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản xuất thỡ mới nắm được quyền
hành. Công cụ sản xuất mà ngày nay người công nhân cần nắm để làm chủ lấy mỡnh
khụng phải là những cụng cụ “bỏ trong thựng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời
công nghiệp ống khói. Nó là thứ vật dụng nằm trong đầu óc của công nhân”1. Đó là thông
tin, tri thức, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực.
Thông tin, tri thức là thứ của cải không bao giờ hết. Nếu như đất đai, máy móc có
thể chỉ cấp được cho một số cá nhân thôi, thỡ thụng tin, tri thức cựng lỳc cú thể cú nhiều
người sử dụng. Và nếu vận dụng thích đáng thỡ cú thể lại sinh ra nhiều tri thức mới. Tri
thức lấy khụng bao giờ hết và dựng khụng bao giờ cạn.
Trong Hội thảo quốc tế về chủ đề “Sử dụng tri thức phục vụ phát triển”, Phó Thủ
tướng Phạm Gia Khiêm đó phỏt biểu rằng: “Hiện nay 2/3 dõn số trờn thế giới cũn sống
trong nghốo đói, lạc hậu bởi thiếu vốn, thiếu các nguồn lực để phát triển, đặc biệt là tri
thức khoa học – công nghệ”. Khoảng cách to lớn về tri thức, trong đó có tri thức khoa học
– công nghệ, sự bất bỡnh đẳng về tiếp cận thông tin đặt các nước đang và chậm phát triển
trước những nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tự nhận thức và tự đổi mới chính mỡnh để
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.117.
xây dựng được năng lực tiếp thu kho tàng tri thức nhân loại, để vượt qua nghèo đói, lạc
hậu và tiến tới phát triển, tham gia vào sáng tạo tri thức mới.
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bóo của khoa học,
cụng nghệ mà mũi nhọn là cụng nghệ thụng tin đó và đang tác động đến mọi nền kinh tế,
mọi chế độ xó hội trờn phạm vi toàn cầu. Một xó hội thụng tin, một nền kinh tế tri thức bắt
đầu hỡnh thành. Trong nền kinh tế đó, thông tin là tất cả, thành công của công việc là nhờ
vào “tư liệu thông tin, chứ chẳng phải là nhờ vào số tiền anh có... Tri thức có quyền lực
lớn nhất trong giao dịch”1. Việc tỡm kiếm, khai thỏc và sử dụng hiệu quả thụng tin cú ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển và thành công của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng
và quốc gia. Thực tiễn xó hội đang chứng tỏ rằng, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào
có năng lực tổ chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri thức hiện có
của nhân loại. Ở Việt Nam, nhu cầu phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đũi hỏi phải huy động được mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực thông tin là
vô cùng quan trọng.
Cải cách nền hành chính quốc gia là một đũi hỏi thường xuyên, luôn được coi là
nhiệm vụ chính trị hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào bởi vỡ nhiệm vụ này vừa đáp ứng yêu
cầu của phát triển kinh tế - xó hội của đất nước, vừa tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xó hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đó đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong nhận
thức và tư duy. Với sự đổi mới sáng suốt đó, Việt Nam đó vượt qua thử thách gian nan và
đi lên. Con đường đi đến đổi mới không hề đơn giản. Đó là kết quả của cả quá trỡnh
nghiờn cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy, dựa trên những thông tin khoa học,
thông tin lý luận về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, về những nhận
thức mới đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; vận
dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường, bài học kinh nghiệm của các nước anh em, các nước phát triển, đang phát
triển,... Trong suốt chặng đường đổi mới đó, thông tin, tri thức luôn là nguồn lực vô giá
của Việt Nam.
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.61.
“Khi cơ chế thuận thỡ một sự thụng minh biến thành mười sự thông minh. Cơ chế
chưa thuận thỡ một sự hư hỏng kéo theo hàng nghỡn sự hư hỏng. Quy luật phi tuyến ấy sẽ
rất nghiệt ngó nhấn chỡm cỏc cộng đồng yếu kém, nhưng cũng mở ra cơ hội và khả năng
nhảy vọt thần kỳ cho những cộng đồng thông minh và biết giá trị của trí tuệ thời nay”1.
Ba mươi năm trước, các nhà khoa học Tây Âu đó từng phỏt hiện ra rằng họ thua
kộm Mỹ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật khụng phải do thiếu người tài, mà chủ yếu do
không có cơ chế quản lý thụng minh để có thể huy động và phát huy hết mọi tài năng trong
xó hội.
Ở Đông Á, với cơ chế quản lý thụng minh, Hàn Quốc và Singapore, Hồng Kông đó
đuổi kịp thế giới phát triển chỉ sau 30 năm. Đạt được thành công đó, không phải nhờ người
dân 3 nước này thông minh hơn người dân các nước khác, mà là những nhà lónh đạo, quản
lý của đất nước, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của đất nước đó luụn
quan tõm đến cải cách hành chính, tỡm ra được cơ chế quản lý thớch hợp để phát huy tiềm
năng của dân tộc.
Những tấm gương đó luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong suốt
chặng đường đổi mới.
Theo Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010,
đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của cải cỏch bao
gồm: Cải cỏch thể chế; Cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh; Đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách tài chính công.
Toàn cầu hoá buộc các cộng đồng phải đoàn kết lại. Sự thông minh của từng người
chỉ phát huy được thông qua sự thông minh tập thể, sự thông minh hệ thống của cả cộng
đồng. Sự thông minh hệ thống của cả cộng đồng là nguồn trí tuệ cộng đồng, là nguồn cộng
năng tạo ra sức mạnh to lớn đưa cộng đồng vươn lên.
Từng người dân thông minh, từng nhà khoa học giỏi,... sẽ chưa đủ. Điều hết sức
quan trọng, mấu chốt của sự thành công là một cơ chế quản lý cú thể tập hợp và phỏt huy
được khả năng của mỗi người, hỗ trợ họ không ngừng phát triển tri thức trong suốt cuộc
1 Hoàng Tuỵ. Trí tuệ cộng đồng: Chỡa khoá vào kinh tế tri thức. Báo Người Lao động, Số Xuân
Tân Tỵ, 2001.
đời hoạt động, có cơ chế biến xó hội thành xó hội học tập suốt đời, thường xuyên trao đổi,
chuyển giao, vận dụng, sản xuất và phát triển tri thức. Tất cả những con người tài giỏi đó
sẽ chỉ được phát huy mọi khả năng, tài trí trong môi trường kinh tế - xó hội lành mạnh và
thoỏng đóng, tạo nờn bởi cơ chế quản lý thụng minh, biết khuyến khích mọi sáng kiến chủ
động, mọi tài năng sáng tạo,biết hạn chế, loại trừ mọi yếu tố, mọi xu hướng tiêu cực.
Bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
thông tin khoa học cung cấp những thông tin như thế nào, con đường, cách thức thông tin
ra sao để góp phần đổi mới sự lónh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà nước, cải
cách hành chính? Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong thời đại kinh tế tri
thức, không dựa vào trí tuệ, học vấn thỡ khú cú thể vươn lên. Việc khơi dậy và phát huy
mọi tiềm năng trí tuệ của dân tộc là vấn đề quan trọng, song tổ chức, khai thác triệt để mọi
tiềm năng ấy cho sự phát triển của đất nước nhờ một cơ chế quản lý thụng minh là điều vô
cùng quan trọng, không thể thiếu. Đó là bài toán không hề đơn giản, trong đó, thông tin, tri
thức, công nghệ thông tin đóng vai trũ hết sức quan trọng. Hiện nay, Việt Nam đang tích
cực đổi mới, cải cách hành chính. Nghiên cứu vấn đề đẩy mạnh hoạt động thông tin phục
vụ cải cách hành chính là một trong những vấn đề hết sức cấp thiết.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu
Lịch sử của thông tin đó cú từ xa xưa, song mói đến những năm 40 của thế kỷ XX,
thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Nhất là sau khi nhà bác
học Mỹ C. Shanon vào năm 1948 tỡm ra lý thuyết thụng tin, khỏi niệm “thụng tin” và cỏc
phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rói trong hầu
khắp cỏc lĩnh vực của tự nhiờn và đời sống xó hội.
Từ sự mở đầu gian truân nhưng đầy hứa hẹn đó, cho đến nay, hơn nửa thế kỷ, loài
người đó nghiờn cứu thụng tin trờn nhiều bỡnh diện. Chỳng tụi tạm sơ bộ khái quát một số
bỡnh diện chính như sau:
2.1. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện lý luận về thụng tin
* Về khỏi niệm và loại hỡnh thụng tin có các nhà nghiên cứu khoa học tiêu biểu
như: R. V. L. Hartley, người đầu tiên tóm tắt khái niệm thông tin vào năm 1924 và sau đó
năm 1950, ông và C. E. Shanon (người Mỹ) đó hoàn thiện khỏi niệm thụng tin trờn quan
điểm toán học. Năm 1971, nhà triết học Xụviết A. D. Ursul trỡnh bày chi tiết khỏi niệm
thụng tin trờn quan điểm thực tiễn và lịch sử. N. Winner đó xem xột khỏi niệm thụng tin
trờn quan điểm điều khiển học. J. M. Ziman đó mụ tả thụng tin như một hỡnh thức cơ bản
của sự tồn tại vật chất bên cạnh không gian, thời gian và vận động. Từ những năm 60 của
thế kỷ XX và những năm gần đây, người ta tập trung nghiên cứu thông tin trên quan điểm
triết học và quan điểm xó hội (J. M. Ziman 1965; Jukov 1971; Ursul 1971 và một số người
khác).
Một trong những cỏch nhỡn hiện đại là xem quá trỡnh thụng tin dưới góc độ phản
ánh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V. I. Lênin
viết: “Mọi vật chất đều có thuộc tính họ hàng với cảm giác, là thuộc tính phản ánh”. Như
vậy, thuộc tính phản ánh là thuộc tính vốn có sẵn trong vật chất. Trong đó, nói đến thông
tin phải nói đến hai ngôi: ngôi thứ nhất có nhiệm vụ phản ánh, ngôi thứ hai có nhiệm vụ
cảm thụ phản ánh đó. Tuy nhiên, không nên hiểu đơn thuần khái niệm thông tin đồng nhất
với khái niệm phản ánh. Thông tin là khái niệm tồn tại và hiện diện trong mọi vật, phản
ánh quan hệ giữa hai ngôi: nguồn tin và người dùng tin.
* Về sự hỡnh thành và phát triển của thông tin học. Những năm 90 của thế kỷ XX,
người ta càng nói nhiều hơn về sự ra đời của xó hội thụng tin và nền kinh tế dựa trờn tri
thức (GS. Nick Moore,...) với những đặc trưng cơ bản: Thông tin được coi là nguồn lực
phát triển quan trọng nhất; Việc sử dụng thông tin ngày càng được mở rộng trong cộng
đồng; Ra đời phát triển ngành công nghiệp mới ở ngay trong nền kinh tế: ngành công
nghiệp thông tin.
Tài liệu nghiên cứu về thông tin học ngày càng nhiều. Theo thống kê, toàn thế giới
hàng năm công bố gần 10 ngàn tên tài liệu khác nhau về các vấn đề của thông tin học. Hơn
nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó đạt được những thành tích đáng kể, lý giải được nhiều
quy luật, phần nhiều là những quy luật riêng về hiện tượng thông tin, về quá trỡnh và hệ
thống thụng tin, về mụi trường của hoạt động thông tin.
* Những nghiên cứu về xó hội thụng tin
Bước vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, các nhà khoa học Hoa Kỳ mà đại diện là
F. Machlup, D. Bell và M. Porat đó đi tiên phong trong việc nghiên cứu cú hệ thống về xó
hội thụng tin và nền kinh tế thụng tin. Năm 1962, trong công trỡnh cú tờn gọi “Sản xuất và
phổ biến kiến thức ở Hoa Kỳ”, F. Machlup cho biết rằng, ngành công nghiệp kiến thức
Hoa Kỳ vào năm 1958 đó chiếm tới 29% tổng sản phẩm xó hội, với 31% tổng lao động
đang hoạt động của cả nước. Đến năm 1990, con số này là: ở Mỹ - 47,4%; ở Anh – 45,8%;
ở Pháp – 45,1%; ở Đức – 40,0% tổng lao động đang làm việc. Theo sự xác định của tác
giả, nền công nghiệp ấy bao gồm giáo dục, nghiên cứu, xuất bản và truyền thanh, truyền
hỡnh. Năm 1967, D. Bell nói đến sự xuất hiện của xó hội hậu cụng nghiệp với nguồn lực
quan trọng nhất để phát triển thuộc về thông tin và kiến thức. Năm 1974, trong luận án tiến
sĩ của mỡnh, M. Porat nghiờn cứu một cỏch chi tiết về khu vực thông tin. Các nhà khoa
học đó phõn chia cỏc quốc gia theo mức độ thông tin thành: Xó hội thụng tin cao; Xó hội
thụng tin trung bỡnh; Xó hội thụng tin thấp.
2.2. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện tổ chức và quản lý thụng tin
Trong lĩnh vực này, có lẽ, người đầu tiên quan tâm nghiên cứu là Lênin. Ngày
14/6/1921, Hội đồng Dân uỷ đó phờ chuẩn Sắc lệnh do Lờnin ký “Về việc nhập và phân
phối tài liệu nước ngoài”, đồng thời thành lâp Uỷ ban Liên cơ quan trung ương về việc
mua và phân phối tài liệu nước ngoài (viết tắt là KOMINOLIT). Với những chức năng và
nhiệm vụ rừ ràng, KOMINOLIT thực chất trở thành cơ quan thông tin khoa học đầu tiên
của Nhà nước xôviết. Sau Lênin, nhiều nhà khoa học Nga đó đạt được những thành tích
nhất định trong lĩnh vực nghiên cứu thông tin, nhất là trờn bỡnh diện tổ chức và quản lý.
Hơn nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó nghiờn cứu việc tổ chức và quản lý thụng tin
trờn những bỡnh diện sau: Xõy dựng chớnh sỏch quốc gia về thụng tin khoa học cụng
nghệ; Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin khoa học; Nghiờn cứu cỏc mụ hỡnh tổ
chức hoạt động thông tin khoa học công nghệ; Nghiên cứu trường hợp các nhà sản xuất cơ
sở dữ liệu; Nghiên cứu về tác động của thị trường và vai trũ của nhà nước đối với việc phát
triển hoạt động thông tin; Nghiên cứu về việc hiện đại hoá thư viện truyền thống; Nghiên
cứu việc xây dựng thư viện số với cổng thông tin tích hợp; Nghiên cứu, phân tích và thiết
kế hệ thống thông tin; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xõy dựng chớnh phủ
điện tử; Nghiên cứu về quản trị thụng tin và cụng nghệ thụng tin; Mụ hỡnh, tổ chức, quản
lý thụng tin – tư liệu trong cơ quan lý luận; Những vấn đề an ninh thông tin,v.v...
2.3. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện đào tạo cán bộ thông tin
Giữa những năm 60 thế kỷ XX, Viện sĩ A. I. Berg đó dự bỏo, thông tin sẽ trở thành
khái niệm dẫn đầu trong các khoa học của thế kỷ XXI. Từ đó đến nay, rất nhiều tổ chức
viện, trường đại học, các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu lĩnh vực đào tạo
cán bộ thông tin.
Trường Đại học Tổng hợp Harverd (Mỹ) nhiều năm đó tiến hành một chương trỡnh
nghiờn cứu toàn diện về chớnh sỏch nguồn lực thụng tin. Cỏc viện sĩ Liờn Xụ (cũ) V. M.
Gluscov, V. A. Traspesnicov đó đề nghị coi chỉ tiêu “trang bị thông tin” trong nền kinh tế
và xó hội quan trọng như các chỉ tiêu “trang bị kỹ thuật”, “trang bị năng lượng”.
Ở Việt Nam, nhiều năm nay, các trường như Đại học Văn hoá, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Dân lập Đông Đô,... đó tổ
chức nghiên cứu và biên soạn các chương trỡnh đào tạo hệ cử nhân và sau đại học về
chuyên ngành thông tin học. Những cố gắng ban đầu đó cú kết quả khả quan.
2.4. Nghiờn cứu vai trũ và tỏc động của thông tin
Là một dạng “tài nguyên” với những đặc điểm như: số lượng vô tận, luôn luôn được
bổ sung, đổi mới và càng được sử dụng càng thêm phong phú, thông tin khoa học giúp con
người sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tiềm lực kinh tế - xó hội. Chớnh vỡ vậy, vai
trũ và tỏc động của thông tin được các nhà khoa học hết sức quan tâm.
Trong những năm 90 thế kỷ XX, nhiều cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề liên quan
tới vấn đề thông tin phục vụ phát triển do UNESCO bảo trợ đó được tổ chức ở nhiều khu
vực trên thế giới. Các chủ đề đó được thảo luận liên quan đến hội nghị chuyên môn gồm:
Các tiền đề thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xó hội; Xỏc định người dùng tin và khả
năng khai thác thông tin quốc gia; Các nguồn lực trong lĩnh vực thông tin phục vụ phát
triển - gồm 3 lĩnh vực chủ yếu để phát triển hoạt động thông tin: nguồn nhân lực, nguồn
thông tin tư liệu và các phương tiện kỹ thuật; Thông tin phục vụ phát triển có tính chất
công khai và hạn chế; Chiến lược tổ chức hệ thống các cơ quan thông tin thích hợp trong
quá trỡnh phỏt triển.
2.5. Thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia
Về vấn đề này, rải rác có những cụng trỡnh nghiờn cứu từng khớa cạnh của vấn đề
như: Tin học hoỏ quản lý hành chớnh nhà nước với quá trỡnh cải cỏch hành chớnh hiện
nay (TS. Đinh Hữu Phí); Đề xuất một số biện pháp để đẩy mạnh cải cách hành chính
(ThS. Phạm Thanh Trung); Phát triển bền vững và xó hội thụng tin: cỏc xu hướng, vấn đề
và mâu thuẫn (A. Levin – Nga); Bản chất thụng tin của quỏ trỡnh xõy dựng quan điểm
quản lý hành chính (Phan Huy Quế); Chính phủ điện tử - lý luận và thực tiễn (Trung tâm
Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia. Tổng luận khoa học),...
Ngoài những bỡnh diện chủ yếu trờn, cỏc nhà khoa học trong nước và trên thế giới
cũn nghiờn cứu rất nhiều bỡnh diện khỏc của thụng tin, thế nhưng vấn đề thông tin với
việc cải cách nền hành chính quốc gia vẫn là vấn đề cũn bỏ ngỏ, ít được bàn tới, chưa có
đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
* Về lý luận
Làm rừ hệ thống cơ sở lý luận về thông tin, hoạt động thông tin khoa học, thông tin
lý luận, thông tin và công nghệ thông tin, nguồn lực công nghệ thông tin, nguồn lực tri
thức; mối quan hệ giữa thụng tin với cải cỏch nền hành chớnh quốc gia; vai trũ hoạt động
thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia.
* Về thực tiễn
- Khái quát thực trạng hoạt động thông tin đối với công tác lónh đạo, quản lý nhà
nước, cải cách nền hành chính quốc gia trong thời gian gần đây.
- Đánh giá hiệu quả của thông tin đối với cải cách nền hành chính quốc gia.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về đẩy mạnh hoạt động thông tin với cải cách nền
hành chính quốc gia.
- Xây dựng hệ thống giải pháp khả thi đẩy mạnh hoạt động thông tin nhằm góp
phần tích cực cải cách nền hành chính quốc gia trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
4. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của việc đẩy mạnh hoạt động thông tin với cải cách hành
chính quốc gia.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động thông tin với cải cách hành chính quốc gia ở Việt
Nam.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động thông tin
phục vụ cải cách hành chính ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ một đề tài cấp bộ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc đẩy
mạnh hoạt động thông tin phục vụ cho cải cách hành chính quốc gia trong thời gian gần
đây, đặc biệt là để góp phần hiện đại hoá nền hành chính quốc gia, xây dựng chính phủ
điện tử, thực hiện Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chớnh trờn cỏc lĩnh vực quản lý nhà
nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30).
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận mác xít với quan điểm thực tiễn, biện chứng, lịch sử,
khách quan để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin, phát triển thông tin,
ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ cải cách nền hành chính quốc gia.
Đề tài tiếp cận từ góc độ thông tin học. Thế kỷ XXI là thế kỷ kinh tế tri thức chiếm
vị trí chủ đạo. Trong nền kinh tế đó, năng lực đổi mới của quốc gia có liên quan đến tiền
đồ và vận mệnh của dân tộc. Cải cách hành chính là công việc thường xuyên của bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới. Hoạt động thông tin gắn bú mật thiết với việc tỡm kiếm tri thức,
sản xuất và phổ biến tri thức, giao lưu, trao đổi tri thức, góp phần đẩy mạnh dân chủ nên
nó ngày càng trở thành hệ thống trợ giúp không thể thiếu hỗ trợ nâng cao năng lực đổi mới
quốc gia nói chung cũng như cải cách hành chính quốc gia nói riêng.
Đề tài tiếp cận từ góc độ quản lý nhà nước. Cải cách hành chính ở Việt Nam là
công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành
chớnh nhà nước trong bối cảnh mới – kinh tế tri thức, toàn cầu hoá, khu vực hoá – có
nhiều vấn đề vừa phải làm, vừa học hỏi, vừa