Giải quyết thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao dần đời sống của
nhân dân luôn là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và
mọi thành viên trong xã hội ta.
Nước ta có dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động năm 2000 là gần 40
triệu mà đa số ở nông thôn, trong khi bình quân ruộng đất đầu người thấp, ngành nghề
chưa phát triển, tỷ lệ tăng dân số cao... Do vậy, số người lao động chưa đủ hoặc chưa có
việc làm ngày càng nhiều.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, việc sử dụng máy
móc và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức
sản xuất tuy có tạo thêm nhiều chỗ làm việc nhưng cầu về lao động vẫn nhỏ hơn cung,
đồng thời xuất hiện tình trạng thừa lao động giản đơn, lao động lành nghề sử dụng chưa
phù hợp.
Để tạo việc làm, nước ta đã có nhiều giải pháp tích cực, trong đó xuất khẩu lao
động là một trong những giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, quá trình hợp tác quốc tế về
lao động (cách gọi trước đây) hay xuất khẩu lao động (cách gọi hiện nay) đang còn nhiều
nhược điểm, thiếu sót như: việc quản lý xuất khẩu lao động chưa tốt; quyền lợi của người
lao động của ta ở nước ngoài chưa được quan tâm đầy đủ (cả về vật chất và tinh thần),
chất lượng lao động kém, trình độ ngoại ngữ thấp, ý thức kỷ luật lao động của người Việt
Nam ở nước ngoài chưa cao...
Chính vì vậy, chỉnh đốn và đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, mở rộng thị
trường lao động, đặc biệt là ở những thị trường có điều kiện lao động tốt, thu nhập cao, là
một trong những vấn đề có tình thời sự nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập,
thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong điều kiện phân công lao
động quốc tế và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Vì thế, "Đẩy
mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay" được chọn làm đề tài
luận văn thạc sĩ.
75 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2242 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của
nước ta trong giai đoạn hiện nay
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao dần đời sống của
nhân dân luôn là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và
mọi thành viên trong xã hội ta.
Nước ta có dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động năm 2000 là gần 40
triệu mà đa số ở nông thôn, trong khi bình quân ruộng đất đầu người thấp, ngành nghề
chưa phát triển, tỷ lệ tăng dân số cao... Do vậy, số người lao động chưa đủ hoặc chưa có
việc làm ngày càng nhiều.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, việc sử dụng máy
móc và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức
sản xuất tuy có tạo thêm nhiều chỗ làm việc nhưng cầu về lao động vẫn nhỏ hơn cung,
đồng thời xuất hiện tình trạng thừa lao động giản đơn, lao động lành nghề sử dụng chưa
phù hợp.
Để tạo việc làm, nước ta đã có nhiều giải pháp tích cực, trong đó xuất khẩu lao
động là một trong những giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, quá trình hợp tác quốc tế về
lao động (cách gọi trước đây) hay xuất khẩu lao động (cách gọi hiện nay) đang còn nhiều
nhược điểm, thiếu sót như: việc quản lý xuất khẩu lao động chưa tốt; quyền lợi của người
lao động của ta ở nước ngoài chưa được quan tâm đầy đủ (cả về vật chất và tinh thần),
chất lượng lao động kém, trình độ ngoại ngữ thấp, ý thức kỷ luật lao động của người Việt
Nam ở nước ngoài chưa cao...
Chính vì vậy, chỉnh đốn và đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, mở rộng thị
trường lao động, đặc biệt là ở những thị trường có điều kiện lao động tốt, thu nhập cao, là
một trong những vấn đề có tình thời sự nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập,
thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong điều kiện phân công lao
động quốc tế và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Vì thế, "Đẩy
mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay" được chọn làm đề tài
luận văn thạc sĩ.
2. Nhiệm vụ của luận văn
2.1. Làm rõ sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta.
2.2. Tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động của một số nước như Philipin, Thái
Lan, Bănglađét.
2.3. Phân tích tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta qua hai giai đoạn 1980 -
1989 và 1990 đến nay.
2.4. Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của Việt Nam trong
thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề này đã có nhiều tác giả nghiên cứu, như:
Phạm Nhật Tân: Sự Hội nhập khu vực về xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Trương Quang Oánh: Tạo vị thế để mở rộng xuất khẩu lao động.
Trần Đình Chính: Mở rộng xuất khẩu lao động - một hướng tích cực giải quyết
việc làm.
Nguyễn Quang Hiển: Xu hướng vận động thị trường lao động của nước ta.
Nguyễn Lương Trào: Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở nước ta trong giai
đoạn mới.
Trần Văn Hằng: Thị trường lao động Việt Nam và cơ chế giải quyết việc làm
ngoài nước.
Minh Đức: Đánh giá hợp tác lao động 10 năm 1985 - 1995 và phương hướng
1996 - 2000.
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ là những bài báo về từng mặt của
xuất khẩu lao động:
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của chương trình hợp tác lao động quốc tế và XKLĐ.
- Phân tích một số thị trường lao động trên thế giới và trong khu vực.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ ở nước ta.
Còn có ít công trình phân tích một cách tương đối toàn diện công tác XKLĐ của
ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, ở nước ta còn có những cách hiểu khác nhau về nội dung của phạm trù
XKLĐ. Luận văn này chỉ sử dụng phạm trù "xuất khẩu lao động" theo nghĩa hẹp, nghĩa
là chỉ xét những người lao động Việt Nam được đưa đi làm việc tại các nước và các vùng
ngoài lãnh thổ Việt Nam.
5. Những đóng góp của luận văn
Tìm hiểu tình hình XKLĐ của một số nước từ đó rút ra những kinh nghiệm có
thể vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Khái quát được những thành tựu, những thiếu sót chủ yếu và nguyên nhân trong
công tác XKLĐ ở nước ta những năm qua.
Đề xuất một số giải pháp khả thi đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên,
các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội trong lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế và
những độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có lời mở đầu, 3 chương và kết luận.
Chương 1: Sự cần thiết phải xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay và kinh
nghiệm XKLĐ của một số nước.
Chương 2: Tình hình XKLĐ của nước ta những thập kỷ qua.
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh XKLĐ của
nước ta trong thời gian tới.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: sự cần thiết xuất khẩu lao động của nước ta và
kinh nghiệm xuất khẩu lao động của một số nước
5
1.1. Xuất khẩu lao động và thị trường lao động 5
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta 7
1.3. Tình hình xuất khẩu lao động của một số nước trong khu vực 17
Chương 2: tình hình xuất khẩu lao động của nước ta những
thập kỷ qua
24
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động của nước ta thời kỳ 1980-1990 24
2.2. Tình hình xuất khẩu lao động của nước ta từ 1991 đến nay 30
2.3. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ công tác xuất khẩu
lao động
41
Chương 3: những phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy
mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong thời
gian tới
46
3.1. Phương hướng xuất khẩu lao động của nước ta 46
3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước
ta thời gian tới
53
3.2.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế 53
3.2.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn và đào tạo bồi
dưỡng nguồn lao động phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao
55
động
3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện chính sách tài chính phục vụ cho công tác
xuất khẩu lao động
59
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu
lao động
62
3.2.5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối với chương trình
xuất khẩu lao động
64
3.2.6. Xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp của cả tổ chức và
cá nhân
65
Kết luận 68
Danh mục tài liệu tham khảo 71
những công trình khoa học liên quan đến đề tài đã công bố 74
phụ lục 75
Chương 1
Sự cần thiết xuất khẩu lao động của nước ta và kinh nghiệm xuất khẩu lao động của
một số nước
1.1. Xuất khẩu lao động và thị trường lao động
1.1.1. Xuất khẩu lao động
Bằng Quyết định 46CP ngày 01/02/1980 của Hội đồng Chính phủ, nước ta bắt
đầu thực hiện XKLĐ vào những năm 80. Tuy nhiên, trong giai đoạn đó, một mặt chưa
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế thị trường và hàng hóa sức lao động trong CNXH, mặt
khác, do đề cao quan hệ thân thiện giúp đỡ lẫn nhau giữa nước ta với các nước XHCN
nên gọi là Hợp tác quốc tế về lao động.
Sau khi CNXH sụp đổ ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, nền kinh tế
nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường thì thuật
ngữ XKLĐ được sử dụng thay cho thuật ngữ Hợp tác quốc tế về lao động.
Trước khi có Luật Doanh nghiệp thì XKLĐ được hiểu là XKLĐ tại chỗ và
XKLĐ trực tiếp. XKLĐ tại chỗ là người lao động bán sức lao động cho các công ty nước
ngoài và làm việc cho họ ở ngay trên lãnh thổ của mình. Chẳng hạn, người lao động Việt
Nam làm cho các công ty nước ngoài trong các khu chế xuất ngay trên lãnh thổ Việt
Nam. Còn XKLĐ trực tiếp là người lao động được đưa sang các nước khác làm thuê.
Từ ngày 4/5 đến ngày 12/6 năm 1999, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp. Điều 2 Luật Doanh
nghiệp xác định: "Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên
lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo quy định của luật này và các quy định luật pháp khác có
liên quan.
Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật này và quy định của luật
chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành" [21,
tr. 7].
Căn cứ vào luật này đã xuất hiện ý kiến cho rằng mọi doanh nghiệp nằm trên
lãnh thổ Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy,
quan niệm như trên về XKLĐ không còn phù hợp.
XKLĐ hiện nay được hiểu là việc đưa người lao động từ nước xuất khẩu đến làm
việc ở các nước có nhu cầu nhập khẩu lao động. Theo cách hiểu này thì XKLĐ chỉ bao
gồm trường hợp thứ hai của quan niệm trước, và đây cũng là cách hiểu được sử dụng
trong luận văn này.
Theo lý luận trừu tượng thì những người lao động đi làm việc ở nước ngoài có
thể dưới hình thức bán hàng hóa sức lao động hoặc dưới hình thức làm dịch vụ (như làm
việc nội trợ). Luận văn này không tách biệt mà gộp chung lại khi tính cung cầu trên thị
trường lao động.
1.1.2. Thị trường lao động
Thị trường lao động theo đúng nghĩa chỉ là mua bán hàng hóa sức lao động. ở
đây tính cả việc thuê người làm dịch vụ. Thị trường lao động cũng bị chi phối bởi các
quy luật của kinh tế hàng hóa, nhất là quy luật cung cầu. Việc hình thành thị trường lao
động quốc tế do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do sự mất cân đối về cung cầu lao động nói chung trên thị trường lao động các
nước. Nhiều nước có nhu cầu lớn về lao động như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các
nước thuộc khu vực Trung Đông... mà cung về lao động trong nước không đáp ứng đủ,
trong khi nhiều nước lại thừa lao động như Philipin, ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam,
Bănglađét... Từ đó dẫn đến sự XKLĐ từ các nước thừa sang các nước có nhu cầu sử dụng
lao động ngoài nước.
- Do sự mất cân đối trong từng loại lao động khác nhau: nhiều nước thiếu lao
động có trình độ cao, đặc biệt là những nước đang phát triển, nhưng thừa lao động giản
đơn, trong khi đó, ở các nước phát triển thì những lao động 3D (nặng nhọc, độc hại, bẩn)
người dân bản xứ không thích làm... nên phải nhập khẩu lao động.
- Do giá cả lao động ở các nước có sự chênh lệch nhau. Thái Lan là một điển
hình: vào những năm 90, quá trình công nghiệp hóa đất nước đã mở rộng nhiều ngành
nghề sản xuất thu hút nhiều lao động, cả lao động có trình độ cao và lao động giản đơn.
Lao động của nhiều nước láng giềng với Thái Lan đã đổ xô vào các nhà máy, xí nghiệp
mà chính phủ Thái Lan đã cho di chuyển đến sát biên giới để tìm nguồn lao động rẻ.
Nhưng đồng thời Thái Lan vẫn khuyến khích XKLĐ vì giá của sức lao động trong nước
thấp hơn giá của sức lao động ở nước ngoài và giá nhân công nước ngoài làm việc ở Thái
Lan tương đối rẻ, chỉ bằng một nửa so với lương của công nhân ở địa phương [1, tr. 8].
Bằng chính sách này, chính phủ Thái Lan đã đem lại những nguồn lợi to lớn cho người
lao động và cho đất nước.
ở nước ta, mức cung lao động lớn nhưng khả năng giải quyết việc làm trong nước
còn hạn chế, đồng thời giá cả của sức lao động trong nước thấp (do nền kinh tế kém phát
triển và thu nhập bình quân đầu người thấp) do vậy XKLĐ là cấp thiết, phù hợp với quy
luật hình thành thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, lao động của ta chỉ có thể hội
nhập vào thị trường lao động quốc tế khi chất lượng của nó đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường.
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta
Ngày nay, di chuyển lao động trên phạm vi toàn cầu là một hiện tượng kinh tế -
xã hội phổ biến. Do vậy, thuật ngữ "xuất khẩu lao động" cũng được sử dụng một cách
rộng rãi hơn và được coi như một phương thức thực hiện phân công lao động quốc tế.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ, lực lượng sản xuất đã phát triển tới một trình độ cao chưa từng có. Sự phát
triển của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia. Mỗi một quốc gia đã trở thành
một khâu gắn kết chặt chẽ và không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới. Muốn phát triển
và đạt hiệu quả về kinh tế phải có sự mở rộng quan hệ và tham gia vào sự phân công lao
động quốc tế.
Mặt khác, cùng với sự phát triển chung là sự phát triển không đều về kinh tế -
chính trị - xã hội cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên và các nguồn lực
khác. Điều đó dẫn đến tình trạng không có quốc gia nào có lợi thế so sánh tuyệt đối và
tương đối trên mọi lĩnh vực, nên tất yếu phải tham gia thị trường quốc tế, trong đó có thị
trường lao động. XKLĐ đã trở thành một hoạt động kinh tế quan trọng trong nhiều thập
kỷ qua và còn có vai trò lớn trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1.2.1. Cung về lao động của nước ta hiện nay lớn hơn cầu và việc làm trở
thành vấn đề cấp bách
Nghiên cứu về cộng đồng dân cư tùy theo mục đích nghiên cứu mà các nhà xã hội
học có thể phân chia cộng đồng theo những tiêu thức khác khau (lứa tuổi, giới tính, tôn
giáo, tín ngưỡng...). Dưới góc độ kinh tế và xã hội học lao động thì việc làm là một tiêu
chuẩn quan trọng. Pierre Naville - một trong những chuyên gia xuất sắc về xã hội học lao
động đã nhận định "sự phân biệt đầu tiên trong mọi sự mô tả về dân cư hoạt động là sự
phân biệt giữa những người có việc làm và những người không có việc làm" [36, tr. 8].
Trải qua các giai đoạn của lịch sử xã hội đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau
về thất nghiệp - việc làm. Các nhà kinh tế cổ điển, sống trong thời kỳ khoa học - công
nghệ chưa phát triển, lao động thủ công là chính, mức cầu về lao động rất lớn, nên họ cho
rằng thất nghiệp chỉ là hiện tượng tạm thời, có thất nghiệp là do lười biếng, không chăm
chỉ... các nhà kinh tế thời kỳ này cho rằng thất nghiệp (tức sự lười biếng) tỷ lệ thuận với
mức tiền công. Nếu tiền lương cao sẽ khiến công nhân thích ăn chơi, nhậu nhẹt, không
muốn lao động.
Khi khoa học - kỹ thuật phát triển, sự ra đời của máy móc đã dẫn tới nạn "nhân
khẩu thừa" thì lý thuyết của Thomas Robert Malthus cho rằng thất nghiệp trong xã hội
chỉ do con người sinh đẻ quá nhiều.
Karl Marx (1818 - 1883) không phân tích việc làm nói chung mà tìm hiểu nó
trong phương thức sản xuất TBCN. Trong tác phẩm "Tư bản" (1867), K.Marx đã phát
hiện ra quy luật nhân khẩu thừa tương đối trong CNTB. Marx cho rằng cầu về lao động
xã hội không quan hệ trực tiếp với tổng số tư bản mà nó chỉ liên quan trực tiếp đến bộ
phận tư bản khả biến. Do sự phát triển của khoa học công nghệ và do quy luật tích lũy
TBCN đã làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản ngày càng tăng, bộ phận tư bản khả biến có xu
hướng giảm tương đối trong tổng số tư bản là nguyên nhân gây ra hiện tượng thất nghiệp.
ở nước ta, dân số - lao động - việc làm đang trở thành vấn đề nhức nhối. Giải
quyết sự mất cân đối về cung cầu lao động, tạo việc làm không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh
tế hay xã hội mà còn là vấn đề chính trị. Trên diện tích 330.991 km2 trải dài theo mảnh
đất hình chữ S là một lượng dân cư 76,3 triệu người. Về dân số, nước ta đứng thứ 13 trên
thế giới. Mật độ dân số cao, năm 1930 là 30 người/km2 năm 1960 là 91 người/km2, đến năm
1975 là 144 người/km2, năm 1997 là 232 người/km2, và năm 1999 là 236 người/km2. Mặt
khác, nước ta là một quốc gia dân số trẻ, tỷ lệ tăng dân số cao, vì vậy số dân trong độ tuổi
lao động lớn.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng dân số và mức sinh ở Việt Nam
Năm 1960 1989 1996 1999
Tỷ lệ tăng dân số 3,4% 2,29% 1,87% 1,7%
Tỷ lệ sinh con của một phụ nữ trong tuổi
đẻ
6,3 con 3,8 con 2,7 con 2,3 con
Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số và mức sinh con đã giảm dần nhưng số
người đến độ tuổi lao động vẫn tăng nhanh do hậu quả của tỷ lệ sinh cao trong mấy thập
niên trước. Số lượng dân cư mỗi năm tăng lên khoảng 1,5 triệu người, tương đương với
dân số của một tỉnh như Hà Nam hay Vĩnh Phúc. Do vậy, số người trong độ tuổi lao động
vẫn tăng cả về tuyệt đối và tương đối (so với tổng dân số).
Bảng 2: Cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam năm 1999
(Chia theo nhóm tuổi)
Đơn vị: ngàn người
Lứa tuổi Số lượng lao động
Tỷ lệ % trọng
lực lượng
15 - 24 8.577,6 22,70
25 - 34 10.600,8 28,06
35 - 44 10.393,9 27,51
45 - 54 5.565,2 14,73
55 - 59 1.267,1 3,35
60 tuổi trở lên 1.379,1 3,65
Tổng cộng 37.783,7 100%
[37, tr. 26]
Năm 2000, ước tính dân số Việt Nam trong độ tuổi lao động đạt
gần 40 triệu và dự báo đến năm 2015 con số này sẽ lên đến 62 triệu. So với năm 1990,
năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người, bổ sung vào lực lượng lao động [5, tr. 43].
Tỷ lệ tăng dân số trong độ tuổi lao động cao vượt quá khả năng tạo ra việc làm
hàng năm.
Thời kỳ 1976 - 1980 tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25%,
nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,80%. Con số tương ứng của thời kỳ 1981 - 1985 là
2,87% và 2,67%. Thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và 2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996
ta đã giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Năm 1997 tạo được 1,2 triệu chỗ làm. Năm
1998 là 1,4 triệu. Tuy nhiên, tốc độ tăng việc làm luôn thấp hơn tốc độ tăng của nguồn
lao động, do vậy tỷ lệ thất nghiệp của ta vẫn cao [11, tr. 43].
Ngày 22-9-1999 Ban chỉ đạo điều tra lao động, việc làm trung ương đã tổ chức
công bố kết quả điều tra lao động, việc làm ở khu vực thành thị. Theo ông Nguyễn Lương
Trào - Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trưởng ban chỉ đạo thì tính chung
cả nước tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động là 7,4% (nữ là 8,2%) tăng 0,55% và vẫn
đang tiếp tục tăng, đã dẫn đến tình trạng thừa cung thiếu cầu trên thị trường lao động, và
đang gây sức ép lớn cho chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia về giải quyết việc làm.
Cung lớn hơn cầu trên thị trường lao động là do những nhân tố sau:
Một là: Lực lượng lao động tăng nhanh do tốc độ tăng dân số cao từ mấy thập kỷ
trước để lại. Mỗi năm dân số của ta tăng khoảng 1,5 triệu và cung cấp vào thị trường một
lực lượng lao động vào khoảng 1,3 triệu người.
Hai là: Do việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong lĩnh
vực sản xuất, nhất là trong nông nghiệp, mà "máy móc chèn lấn người" làm cho nhân lực
trong các ngành sản xuất nói chung và ở trong nông nghiệp nói riêng dôi ra đáng kể (thời
gian nhàn rỗi ở nông thôn trung bình khoảng 28%). Lực lượng lao động dôi ra này chủ
yếu là lao động giản đơn.
Ba là: Do cải cách các DNNN, năm 1990 ta có khoảng 12.000 doanh nghiệp nhà
nước thì đầu năm 1996 còn khoảng 6.000 [10, tr. 41] và đến năm 2000 dự kiến sẽ chỉ còn
4.066 DNNN [5, tr. 37]. Theo ông Nguyễn Văn Khang - chuyên viên Vụ Lao động văn
hóa - xã hội - Bộ Kế hoạch và đầu tư thì số lao động không bố trí được việc làm tại các
DNNN đang tăng cao ở hầu hết các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp,
nông nghiệp...
Theo báo cáo gần đây của 3.639 DNNN cho thấy: có 1.546 DNNN có số lao
động không bố trí được việc làm là 92.274 người chiếm khoảng 9% tổng số lao động.
Tuy nhiên, con số trên sẽ không dừng lại ở đó bởi theo dự kiến số DNNN sẽ tiếp tục
giảm xuống còn 2.756 và số người cần sắp xếp lại việc làm là 200.000. Số lượng lao
động dôi dư ở đây hầu hết là lao động trẻ và có nghề. Kết quả điều tra cho thấy số lao
động dôi ra do sắp xếp lại doanh nghiệp có độ tuổi dưới 40 và có trình độ chuyên môn kỹ
thuật chiếm tới 2/3 tổng số lao động dôi dư [27, tr. 10].
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (Khu vực
thành thị)
Đơn vị tính: %
Năm
Vùng
1996 1997 1998 1999
Đồng Bằng 7,57 7,56 8,25 9,34
Đông Bắc 6,42 6,34 6,60 8,72
Tây Bắc 4,51 4,73 5,92 6,58
Bắc Trung Bộ 6,96 6,68 7,26 8,62
Duyên Hải Nam
Trung Bộ 5,57 5,42 6,67 7,07
Tây Nguyên 4,24 4,99 5,88 5,95
Đông Nam Bộ 5,43 5,89 6,44 6,52
Đồng bằng sông Cửu Long 4,73 4,72 6,35 6,53
Theo tính toán để giải quyết số lao động dôi ra ở các DNNN do sắp xếp lại đòi
hỏi phải tốn kém khoảng 2.000 tỷ đồng, trong đó Nhà nước phải chịu 1.000 tỷ, 1.000 tỷ
còn lại do các doanh nghiệp trang trải.
Như vậy nước ta không những dôi dư về lao động giản đơn mà trong một chừng
mực cụ thể còn dư thừa cả lao động kỹ thuật, lao động có nghề.
Tìm lời giải bài toán tạo việc làm cho những người lao động nói trên là việc làm
vô cùng khó khăn đối với những nhà hoạch định chính s