Dự báo là một công cụ đắc lực của công tác lập kế hoạch, chiến lược phát triển, chiến lược
kinh doanh, quy hoặch phát triển dịch vụ Viễn thông… Để có được chiến lược phát triển
đúng đắn, kế hoạch phát triển khả thi và biện pháp thực hiện hợp lý nhằm phát huy có hiệu
quả các nguồn lực thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội theo các mục tiêu thì rất
cần công tác dự báo.
Mà ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của
thông tin các yếu tố bất ngờ xẩy ra liên tiếp đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nên việc
dự báo được các yếu tố đó là rất cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách của một
quốc gia cũng như của một ngành.
Ngành Bưu điện cũng như các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, để tồn tại và
phát triển một cách bền vững thì cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, mà để
xây dựng được chiến lược đúng đắn thì công tác dự báo giữ một vai trò quan trọng.
Đặc biệt đối với tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam đã thực hiện đường
lối đổi mới và đang phát triển theo hướng trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh và không
còn là công ty độc quyền kinh doanh trên lĩnh vực viễn thông, cho nên trong tương lai có
nhiều các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài sẽ tham gia vào kinh doanh các loại
hình dịch vụ này, nên công tác dự báo là rất cần thiết. Nhất là đối với các dịch vụ Viễn
thông mà trong đó, dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định giữ một vai trò
quan trọng.
D
73 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1998 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện
thoại cố định đến năm 2010
Lời nói đầu
ự báo là một công cụ đắc lực của công tác lập kế hoạch, chiến lược phát triển, chiến lược
kinh doanh, quy hoặch phát triển dịch vụ Viễn thông… Để có được chiến lược phát triển
đúng đắn, kế hoạch phát triển khả thi và biện pháp thực hiện hợp lý nhằm phát huy có hiệu
quả các nguồn lực thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội theo các mục tiêu thì rất
cần công tác dự báo.
Mà ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của
thông tin các yếu tố bất ngờ xẩy ra liên tiếp đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nên việc
dự báo được các yếu tố đó là rất cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách của một
quốc gia cũng như của một ngành.
Ngành Bưu điện cũng như các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, để tồn tại và
phát triển một cách bền vững thì cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, mà để
xây dựng được chiến lược đúng đắn thì công tác dự báo giữ một vai trò quan trọng.
Đặc biệt đối với tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam đã thực hiện đường
lối đổi mới và đang phát triển theo hướng trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh và không
còn là công ty độc quyền kinh doanh trên lĩnh vực viễn thông, cho nên trong tương lai có
nhiều các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài sẽ tham gia vào kinh doanh các loại
hình dịch vụ này, nên công tác dự báo là rất cần thiết. Nhất là đối với các dịch vụ Viễn
thông mà trong đó, dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định giữ một vai trò
quan trọng.
Chính vì những lý do trên mà việc nghiên cứu đề tài “ Dự báo nhu cầu sử dụng
dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010 ” là vấn đề rất cần phải quan tâm.
Trong khuân khổ đề tài này, chủ yếu nghiên cứu dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ
Điện thoại cố định trên phạm vi toàn quốc và những số liệu phục vụ cho đề tài này được
thu thập từ nguồn số liệu của VNPT.
Để giải quyết những vấn đề trên, nội dung của đề tài được chia làm 3 chương chính
sau:
Chương I : Những sở cứ để dự báo.
Chương II: Đánh giá tình hình sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định trong thời gian qua.
Chương III: Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010.
D
Chương I : Những Sở Cứ Để Dự BáO
I. Những định hướng phát triển kinh tế xã hội Việt nam tác động đến sự phát triển
nhu cầu dịch vụ Viễn thông nói chung và dịch vụ điện thoại cố định nói riêng
1. Định hướng phát triển dịch vụ viễn thông trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX.
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đề ra trong "Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001 - 2010", từ năm 2001 trở đi ngành Bưu chính - Viễn thông phải đảm bảo cung
cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với chất
lượng cao, giá cước thấp hơn hoặc tương đương với các nước trong khu vực; áp dụng giá
cước ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo dục, đào tạo
và nghiên cứu khoa học; Đồng thời có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh
tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông
và Internet.
2. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế .
- Định hướng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta là chuyển dịch cơ cấu theo
hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
- Có sự thay đổi lớn về cơ cấu ngành nghề trong tỷ lệ dân cư, tỷ lệ dân cư tham gia vào
các hoạt động dịch vụ, thương mại, công nghiệp tăng lên, tỷ lệ dân cư tham gia sản
xuất nông nghiệp giảm đi. Nhu cầu giao tiếp quan hệ giữa các tầng lớp dân cư tăng
cũng thúc đẩy yêu cầu phát triển các dịch vụ Viễn thông.
- Quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010 thì điều kiện
về cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, hiện đại, mà Viễn thông là một trong những
ngành đóng vai trò nền móng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do
đó đòi hỏi ngành Viễn thông phải phát triển toàn diện vào những năm đó.
- Sự ra đời hàng loạt của khu chế xuất, khu công nghiệp kỹ thuật cao và trong giai đoạn
2005-2010 nhiều chương trình kinh tế trọng điểm của Đảng, nhà nước về dầu khí, năng
lượng, giao thông… sẽ thực sự phát huy tác dụng to lớncủa nó và tạo nên một bước
ngoặt về kinh tế đòi hỏi nhu cầu thông tin cao và sự phục vụ của những dịch vụ Viễn
thông mới.
- Thị trường chững khoán hình thành và việc phát hành trái phiếu quốc tế ở Việt nam
trong một vài naưm tới đòi hỏi phải cung cấp các dịch vụ Viễn thông cao cấp.
3. Thu nhập của dân cư
Kinh tế Việt Nam trong thời gian qua được coi là có nhiều điều kiện thuận lợi cho
phát triển viễn thông. Từ năm 1990 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm tương đối
cao và ổn định, đạt khoảng 7% năm. Mặc dù năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính Châu
á diễn ra ảnh hưởng xấu đến hầu hết các nước trong khu vực nhưng Việt Nam vẫn giữ
được tốc độ tăng trưởng 5,5%. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam đạt
6,84%, đứng thứ hai thế giới.
Trước năm 1990, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế ở mức không đáng kể, nhưng đến
năm 2000 đã đạt 27% GDP. Cơ cấu kinh tế có những bước chuyển dịch tích cực. Trong
GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp từ 22,7% tăng lên
36,6%, dịch vụ tăng từ 36,8% lên 39,1%.
Thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng ổn định trong các năm qua, hiện nay
GDP/ người của Việt Nam khoảng gần 400 USD/ người, gấp đôi so với năm 1991. Tỷ lệ
lạm phát ổn định và ở mức thấp.
Tất cả những yếu tố trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển viễn thông, tạo
ra tâm lý tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có dự định đầu tư cho Việt Nam đặc biệt là
trong lĩnh vực viễn thông. Kinh tế phát triển cao và ổn định kéo theo nhu cầu sử dụng các
dịch vụ viễn thông tăng lên.
4. Đặc điểm dân cư thay đổi.
- Cùng với sự phát triển tiến bộ của xã hội loài người, trình độ dân trí của người dân Việt
nam được nâng cao không ngừng, mong muốn được tiếp cận với nền văn minh nhân
loại mà sự phát triển vượt bậc của Viễn thông mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu
này.
- Với số dân khoảng 84 triệu người vào năm 2005, khoảng 90 triệu người vào 2010 đó là
thị trường rộng lớn là điều kiện thuận lợi để các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông khai
thác.
5. Các yếu tố chính trị , quan hệ quốc tế tác động tới việc mở rộng thị trường Viễn
thông Việt nam.
Việt nam hiện đã là thành viên chính thức của ASEAN và tham gia AFTA, Việt
nam cũng đang trên tiến trình gia nhập APEC và WTO. Khi đã gia nhập các tổ chức trên
thì các ràng buộc về mở cửa là bắt buộc không thể tránh khỏi. Xu hướng mở cửa, hội nhập
trên cùng với các nhu cầu giao lưu phát triển đã và sẽ có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát
triển của thị trường Viễn thông các nước nói chung và thị trường viễn thông Việt nam nói
riêng.
Vì vậy thì trường Viễn thông Việt nam phải phát triển để hạ tầng cơ sở thông tin
của Việt nam ngang mức với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trên đây là những yếu tố từ nội lực nền kinh tế Việt nam tác động đến sự phát triển
nhu cầu các dịch vụ Viễn thông, ngay trong bản thân ngành Viễn thông Việt nam cũng như
ngành Viễn thông trên thế giới cũng tạo ra nhu cầu của chính nó.
II. Đặc điểm và đặc trưng kinh tế các sản phẩm dịch vụ viễn thông
1. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ Viễn thông
Bất kỳ một hệ thống kinh tế, một doanh nghiệp nào cũng đều phải giải quyết ba vấn
đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Để giải quyết các vấn đề này
cần phải nghiên cứu đầy đủ các đặc điểm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của ngành, của doanh nghiệp. Viễn thông là một ngành sản xuất dịch vụ thuộc kết cấu hạ
tầng của nền kinh tế quốc dân, Viễn thông cũng có những đặc điểm đặc thù riêng của
mình. Các đặc điểm đó bao gồm:
a) Tính không vật chất của sản phẩm Viễn thông:
Sản phẩm Viễn thông không phải là sản phẩm vật chất chế tạo mới, không phải là
hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến
người nhận, sản phẩm Viễn thông thể hiện dưới dạng dịch vụ như dịch vụ điện thoại cố
dịnh, chương trình phát thanh truyền hình, truyền số liệu… Hiệu quả có ích này rất cần
thiết cho tất cả các mặt sinh hoạt và hoạt động của con người kể cả trong lĩnh vực sản xuất
ra vật phẩm tiêu dùng trong lĩnh vực tiêu dùng xã hội và cá nhân.
b) Quá trình sản xuất kinh doanh gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Quá trình sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ Viễn thông nó khác với quá trình sản xuất
ra các sản phẩm vật chất khác phải trải qua bốn khâu: sản xuất - lưu thông - phân phối -
tiêu dùng mà sản phẩm Viễn thông chỉ trải qua hai khâu trùng nhau là sản xuất và tiêu
dùng. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất trong điện thoại, nơi mà quá trình truyền đưa tín hiệu
điện thoại là quá trình sản xuất được thực hiện với sự tham gia của người nói, tức là quá
trình sản xuất xảy ra đồng thời với quá trình tiêu dùng.
c) Quá trình sản xuất Bưu chính Viễn thông mang tính dây truyền.
Để truyền đưa tin tức hoàn chỉnh từ người gửi đến người nhận thường có từ hai hay
nhiều cơ sở Viễn thông tham gia, mỗi cơ sở chỉ thực hiện một giai đoạn nhất định của quá
trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh đó. Để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh mỗi cơ sở Viễn
thông thường chỉ làm nhiệm vụ hoặc là “giai đoạn đi” hoặc là “giai đoạn đến”, “giai đoạn
quá giang”. Vì vậy trong Bưu điện tồn tại hai khái niệm về sản phẩm là : sản phẩm ngành
và sản phẩm cơ sở.
Có nhiều cơ sở Bưu chính Viễn thông tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức
hoàn chỉnh trong khi đó việc thanh toán cước chỉ diễn ra ở một nơi thường là nơi chấp
nhận tin tức đi. Chính do đặc điểm này trong giai đoạn hiện nay toàn khối thông tin phải
thực hiện hạch toán tập trung. Toàn bộ doanh thu được tập trung về một mối, chi phí cân
đối từ một nguồn. Những đơn vị có doanh thu, lợi nhuận cao hỗ trợ các đơn vị có doanh
thu thấp. Doanh thu cước là doanh thu của ngành mà cơ sở Bưu điện thu hộ. Do vậy cần
phải phân chia doanh thu cước Viễn thông nhăm mục đích xác định kết quả công tác của
mỗi cơ sở Bưu điện dưới dạng giá trị.
d) Trong thời gian tải trọng của ngành Bưu chính Viễn thông tải trọng giao động
không đều theo thời gian và không gian.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức rất đa dạng, nó xuất hiện không đều về không gian và
thời gian.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trên trái đất. ở đâu
có con người thì ở đó có nhu cầu về thông tin và nhu cầu về truyền tin tức xuất hiện không
đồng đều theo các giờ trong ngày và đêm, theo các ngày trong tuần, theo các tháng trong
năm. Thường nhu cầu về truyền tin phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt xã hội, vào những giờ
ban ngày, giờ làm việc của các cơ quan, xí nghiệp, vào các kỳ báo cáo, các dịp lễ tết... thì
lượng nhu cầu rất lớn. Chính đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn tới công tác tổ chức sản
xuất kinh doanh trong ngành Viễn thông.
Sự giao động không đồng đều của tải trọng cộng với những quy định về tiêu chuẩn
chất lượng đã được đặt ra khiến các doanh nghiệp Viễn thông không thể “tích luỹ” tin tức
được mà phải tiến hành truyền đưa tin tức đảm bảo thời gian truyền đưa tin tức thực tế nhỏ
hơn hoặc bằng thời hạn kiểm tra.
Để đảm bảo lưu thoát hết mọi nhu cầu về truyền đưa tin tức cần phải có một lượng
dự trữ đáng kể về các phương tiện, thiết bị thông tin, về lao động. Chính sự không đồng
đều của tải trọng đã làm phức tạp thêm rất nhiều cho việc tổ chức quá trình sản xuất, tổ
chức lao động trong các doanh nghiệp Viễn thông. Yêu cầu phải có khả năng cho qua đảm
bảo lưu thoát hết khối lượng nghiệp vụ ở giờ có tải trọng lớn nhất. Do vậy trong ngành
Bưu điện nói chung và các doanh nghiệp Viễn thông nói riêng có hệ số sử dụng trang thiết
bị và hệ số sử dụng lao động bình quân thường thấp hơn so với các ngành khác. Ngoài ra
nhu cầu truyền đưa tin tức có thể xuất hiện bất kỳ khi nào để thoả mãn mọi nhu cầu của
khách hàng ngành Bưu điện phải hoạt động 24/24 giờ trong ngày đêm. Sẽ tồn tại những
khoảng thời gian mà phương tiện thông tin và lao động được bố trí để thường trực.
2. Các đặc trưng kinh tế của sản phẩm Viễn thông.
Sản phẩm Viễn thông có những đặc trưng sau:
- Đặc trưng 1: Sản phẩm Viễn thông có vai trò thiết yếu đối với đời sống xã hội.
- Đặc trưng 2: Các loại dịch vụ Viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau trong giới
hạn nhất định. Thay vì sử dụng điện thoại di động, người ta thường mua card phone (điện
thoại dùng thẻ) để sử dụng tại các điểm điện thoại công cộng với chi phí thấp hơn nhưng
khả năng tiện lợi lại kém hơn.
- Đặc trưng 3: Do quá trình tiêu dùng sản phẩm Viễn thông không tách rời quá trình
sản xuất nên sản phẩm Viễn thông không thể tồn tại được ngoài quá trình sản xuất để đi
vào lưu thông như các sản phẩm khác, do vậy sản phẩm hay kết quả sản xuất cuối cùng
của hoạt động sản xuất không thể cất giữ được ở trong kho, không dự trữ được...
III. Những vấn đề chung về dự báo
1. Khái niệm dự báo:
Dự báo là sự tiên đoán có căn cứ khoa học, mang tính chất xác suất về mức độ, nội
dung, các mối quan hệ, trạng thái, xu hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu hoặc về
cách thức và thời hạn đạt được các mục tiêu nhất định đã đề ra trong tương lai.
Tiên đoán là hình thức phản ánh vượt trước về thời gian hiện thực khách quan, đó là
kết quả nhận thức chủ quan của con người dựa trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan
trong sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng. Có thể phân biệt ba loại tiên
đoán:
+ Tiên đoán không khoa học : là những tiên đoán không có cơ sở khoa học, chỉ dựa
trên cảm nhận chủ quan của con người.
+ Tiên đoán kinh nghiệm : là những tiên đoán dựa trên chuỗi thông tin lịch sử, ít
nhiều có cơ sở khách quan. Tuy nhiên sự tiên đoán này không giải thích được xu thế vận
động của đối tượng kinh tế và đa số chỉ dừng lại ở mức định tính.
+ Tiên đoán khoa học : là những tiên đoán dựa trên sự phân tích mối quan hệ qua
lại giữa các đối tượng kinh tế – xã hội bằng phương pháp xử lý thông tin khoa học, nhằm
phát hiện ra quy luật vận động của đối tượng kinh tế cần dự báo.
Tính chất khoảng thời gian hữu hạn của dự báo thể hiện ở sự chênh lệch giữa thời
điểm dự báo và thời điểm mà người ta gọi là tầm xa của dự báo, khoảng cách này không
thể tuỳ tiện mà nó phụ thuộc vào mức độ ổn định của đối tượng kinh tế trong quá trình
phát triển của nó.
2. Chức năng và vai trò của dự báo
a. Chức năng:
Bao gồm các chức năng sau:
- Chức năng tham mưu: Trên cơ sở đánh giá thực trang, phân tích xu hướng vận động
và phát triển trong quá khứ, hiện tại, tương lai, dự báo sẽ cung cấp thông tin cần
thiết, khách quan làm căn cứ cho việc ra quyết định quản lý và xây dựng chiến lược,
kế hoạch hoá các chương trình, dự án…Người quản lý và hoạch định chiến lược,
lập kế hoạch có nhiệm vụ phải lựa chọn trong số các phương án có thể có, tìm ra
các phương án có tính khả thi cao nhất, có hiệu quả cao nhất.
- Chức năng khuyến nghị hay điều chỉnh: Chức năng này dự báo tiên đoán các hậu
quả có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội nhằm
giúp các cơ quan chức năng kịp thời điều chỉnh mục tiêu cũng như cơ chế tác động
quản lý để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
b. Vai trò của dự báo:
Dự báo có vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định quản lý đối với bất kỳ
ngành, lĩnh vực nào trong nền kinh tế quốc dân . Cũng như vậy trong quản lý kinh tế vĩ mô
đối với lĩnh vực Bưu chính Viễn thông, vai trò quan trọng của công tác dự báo trước hết
được thể hiện đối với công tác kế hoạch hoá, điều đó được thể hiện ở các nội dung sau:
- Đánh giá thực trạng phát triển bưu chính viễn thông
- Dự báo các xu hướng phát triển bưu chính viễn thông đã và đang hình thành và dự
kiến những xu hướng phát triển tương lai.
- Xác định chiến lược tổng thể phát triển bưu chính viễn thông trong thời kỳ dài hạn.
- Xây dựng các kế hoạch phát triển bưu chính viễn thông 5 năm và hàng năm.
- Soạn thảo các chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra trong chiến lược dài
hạn về kế hoạch 5 năm.
3. Phân loại dự báo
Người ta có thể phân loại dự báo nhu cầu theo các tiêu chí khác nhau: theo mục
tiêu dự báo, thời gian dự báo, theo cấp độ …
3.1. Phân loại dự báo theo mục tiêu
Tuỳ theo mục tiêu dự báo, dự báo nhu cầu có thể phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu
các chính sách quản lý hoặc chiến lược khác hoặc nhằm thiết kế để tính toán cụ thể số
lượng thiết bị.
Đối với mục tiêu nghiên cứu các chính sách quản lý hoặc chiến lược khác, dự báo
nhu cầu và chi phí tương lai để có thể đưa ra một chính sách toàn diện. Bởi vậy, thường áp
dụng phương pháp dự báo vĩ mô cho quốc gia hoặc cho mỗi vùng.
Đối với mục tiêu là để tính toán cụ thể kế hoặch thiết bị cho việc lắp đặt mới hoặc
lắp đặt thêm các thiết bị chuyển mạch, thiết bị cáp nội hạt ở mỗi một vùng tổng đài, dự báo
nhu cầu được lựa chọn dựa vào nghiên cứu chi tiết theo từng khu vực, từng nhóm dịch vụ
hoặc nghiên cứu theo nhóm ở mỗi vùng tổng đài.
3.2. Phân loại theo thời gian dự báo
Tuỳ theo giai đoạn làm dự báo, dự báo nhu cầu được phân thành dự báo ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn
a) Dự báo ngắn hạn
Dự báo này chỉ trong vòng 1 hoặc 2 năm và dùng để dự báo kế hoặch thiết bị hàng
năm. Nó đòi hỏi các thông tin chính xác về các điều kiện kinh tế, khả năng về ngân quỹ và
số các đơn chở
b) Dự báo trung hạn
Dự báo cho 3 hoặc 5 năm tiếp theo và dùng để dự báo một kế hoặch lắp đặt mới
hoặc bổ sung thêm cho thiết bị chuyển mạch và truyền dẫn.
Đối với dự báo ngắn hạn và trung hạn, thường sử dụng phương pháp chuỗi thới
gian. Phưong pháp này cho rằng xu hướng của chuỗi số liệu thực ở hiện tại sẽ được áp
dụng cho dự báo tương lai. Phương pháp chuỗi thời gian có thể bị ảnh hưởng bởi các điều
kiện kinh doanh hoặc các điều kiện kinh tế. Đứng trên góc độ của mỗi vùng tổng đài, nó sẽ
bị ảnh hưởng lớn bởi các kế hoăch phát triển đô thị hoặc các kế hoặch phát triển vùng.
c) Dự báo dài hạn
Dự báo dài hạn thường là 5 năm hoặc nhiều hơn, dự báo này thường áp dụng cho
các kế hoặch đầu tư thiết bị với quy mô lớn. Trong trường hợp này, không thể sử dụng
phương ppháp chuỗi thời gian mà còn phải xem xét đến các yếu tố khác như mức sống dân
cư và sự thay đổi cuộc sống xã hội. Về căn bản phải sử dụng phương phap dự báo gián
tiếp, liên quan đến so sánh quốc tế, các yếu tố điện thoại (như mật độ điện thoại) và các
yếu tố nhân khẩu học.
d) Điều chỉnh dự báo
Đối với giai đoạn dự báo khác nhau, một loại phương pháp dự báo khác được sử
dụng. Phương pháp này có thể được áp dụng cho tất cả các loại dự báo như ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn. Bởi vậy, cần yêu cầu các bước sau:
- Khi sử dụng 2 phương pháp khác nhau, các giá trị dự báo chồng chéo phải được
điều chỉnh.
- Khoảng cách giữa các đường cong tăng trưởng của 2 giai đoạn kế tiếp nhau mà
không trùng nhau cũng phải được điều chỉnh.
Hình 1.1 cho thấy một phương pháp điều chỉnh phần cong nối giữa hai đường cong
được tạo ra bởi hai phương pháp khác nhau, những giá trị cuối của đường cong
ngắn hạn sẽ là những giá trị bắt đầu của mô hình tăng trưởng trong trung hạn và dài
hạn.
Trung và dài hạn
D
ự
bá
o
lư
u
lư
ợn
g
Ngắn hạn
Thời gian dự báo
Hình 1.1 Điều chỉnh dự báo.
3.3. Phân loại theo cấp độ vùng dự báo
Phân loại theo cấp độ vùng dự báo được chia thành hai loại : Dự báo vĩ mô và Dự
báo vi mô. Dự báo cho những vùng lớn như nhu cầu điện thoại của một quốc gia thì gọi là
dự báo vĩ mô, còn dự báo cho một vùng địa phương chẳng hạn như nhu cầu điện thoại của
một vùng tổng đài được gọi là dự báo vi mô
a) Dự báo vĩ mô
Đối với dự báo vĩ mô phải thu thập rất nhiều các thống kê xã hội. Do đó, cần thực
hiện những nghiên cứu tỉ mỉ.
b) Dự báo vĩ mô
Dự báo vi mô được phân loại thành nghiên cứu tổng quan đối với dự báo nhu cầu
của tất cả các vùng tổng đài và nghiên cứu theo nhóm đối với dự báo phân bổ vùng cáp
thuê bao.
Dự báo vi mô c