Sau gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước, tỉnh Quảng
Nam đến nay đã có những bước phát triển căn bản trên tất cả các mặt về đời sống, kinh tế -xã hội, v.v... Từ năm 2000 đến năm 2005: Tốc độ tăng GDP bình quân đạt 10,4%. Giá trị
sản lượng công nghiệp tăng bình quân gần 26%; dịch vụ tăng 14%; nông nghiệp tăng
4,3%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 25% (năm 2000) tăng lên 34% (năm 2005);
dịch vụ từ 33% tăng lên 35%. Toàn tỉnh có 05 khu và 18 cụm công nghiệp đang thu hút
mạnh đầu tư trong nước và nước ngoài... [10, tr 22]. Tuy nhiên, so với tiềm năng về vốn,
tài nguyên, nhân lực thì kết quả đạt được còn chưa tương xứng. Có nhiều nguyên nhân cả
về chủ quan và khách quan; nhưng nguyên nhân chủ yếu và nổi cộm hàng đầu là cơ cấu
kinh tế của tỉnh còn lạc hậu, nhiều điều bất hợp lý cả về nhận thức và thực tiễn. Vì vậy,
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam chủ trương xác định, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH luôn là trọng tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế.
Phương hướng chung và mục tiêu phát triển chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, quyết tâm đổi mới, tạo bước
đột phá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp và dịch vụ” [10, tr 42]. Đồng thời xác định về cơ cấu kinh tế chung trong giai đoạn
2006 - 2015 là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp
trước năm 2020 [10, tr 44 ].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phù hợp với nền kinh tế của tỉnh
là một vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp, luôn đòi hỏi phải có những nhận thức
toàn diện, sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cùng với những giải pháp đồng bộ, liên quan đến mọi
ngành, mọi cấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp, nông thôn; chuyển hướng mạnh sang đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, phương
tiện, nhà xưởng, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất; phát triển các loại cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khả năng tiêu thụ tốt là chiến lược chủ đạo trong phát triển kinh
tế của nhiều địa phương.
Để phát huy được tất cả các nguồn lực cho sự phát triển cần phải sử dụng hợp lý, có
hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ.
Trong đó phải chú trọng đặc biệt tới giải pháp về vốn, mà trước hết là khu vực ngân hàng
cần có những giải pháp về vốn tín dụng thích hợp, dưới nhiều hình thức phong phú, đa
dạng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá chuyển đổi từ cơ cấu “nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ” sang cơ cấu “công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp” nhằm khai thông, tạo
động lực cho việc khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực nội tại và nguồn lực nước ngoài
thúc đẩy nhanh quá trình CDCCKT của tỉnh. Thời gian qua, các TCTD trên địa bàn đã
cung ứng vốn đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được so với tiềm năng và yêu cầu đặt ra
trong quá trình CDCCKT của điạ phương.
Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
địa bàn" làm luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
91 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn
Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên địa bàn
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước, tỉnh Quảng
Nam đến nay đã có những bước phát triển căn bản trên tất cả các mặt về đời sống, kinh tế -
xã hội, v.v... Từ năm 2000 đến năm 2005: Tốc độ tăng GDP bình quân đạt 10,4%. Giá trị
sản lượng công nghiệp tăng bình quân gần 26%; dịch vụ tăng 14%; nông nghiệp tăng
4,3%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 25% (năm 2000) tăng lên 34% (năm 2005);
dịch vụ từ 33% tăng lên 35%. Toàn tỉnh có 05 khu và 18 cụm công nghiệp đang thu hút
mạnh đầu tư trong nước và nước ngoài... [10, tr 22]. Tuy nhiên, so với tiềm năng về vốn,
tài nguyên, nhân lực thì kết quả đạt được còn chưa tương xứng. Có nhiều nguyên nhân cả
về chủ quan và khách quan; nhưng nguyên nhân chủ yếu và nổi cộm hàng đầu là cơ cấu
kinh tế của tỉnh còn lạc hậu, nhiều điều bất hợp lý cả về nhận thức và thực tiễn. Vì vậy,
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam chủ trương xác định, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH luôn là trọng tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế.
Phương hướng chung và mục tiêu phát triển chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, quyết tâm đổi mới, tạo bước
đột phá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp và dịch vụ” [10, tr 42]. Đồng thời xác định về cơ cấu kinh tế chung trong giai đoạn
2006 - 2015 là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp
trước năm 2020 [10, tr 44 ].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phù hợp với nền kinh tế của tỉnh
là một vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp, luôn đòi hỏi phải có những nhận thức
toàn diện, sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cùng với những giải pháp đồng bộ, liên quan đến mọi
ngành, mọi cấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp, nông thôn; chuyển hướng mạnh sang đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, phương
tiện, nhà xưởng, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất; phát triển các loại cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khả năng tiêu thụ tốt là chiến lược chủ đạo trong phát triển kinh
tế của nhiều địa phương.
Để phát huy được tất cả các nguồn lực cho sự phát triển cần phải sử dụng hợp lý, có
hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ.
Trong đó phải chú trọng đặc biệt tới giải pháp về vốn, mà trước hết là khu vực ngân hàng
cần có những giải pháp về vốn tín dụng thích hợp, dưới nhiều hình thức phong phú, đa
dạng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá chuyển đổi từ cơ cấu “nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ” sang cơ cấu “công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp” nhằm khai thông, tạo
động lực cho việc khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực nội tại và nguồn lực nước ngoài
thúc đẩy nhanh quá trình CDCCKT của tỉnh. Thời gian qua, các TCTD trên địa bàn đã
cung ứng vốn đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được so với tiềm năng và yêu cầu đặt ra
trong quá trình CDCCKT của điạ phương.
Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
địa bàn" làm luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng với sự CDCCKT là vấn đề hiện nay đang được
nhiều người quan tâm. Đã có một số công trình khoa học, bài viết được công bố với nhiều
cách tiếp cận khác nhau liên quan đến đề tài như:
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” của tác giả Võ Văn Lâm - Luận án Thạc
sỹ khoa học kinh tế, Học viện CTQGHCM, Hà Nội,1999.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch kinh tế trên
địa bàn tỉnh Nghệ An” của tác giả Hà Huy Hùng - Luận án thạc sỹ khoa học kinh tế, Học
viện CTQGHCM, Hà Nội,1999.
- "Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường" của tác giả Võ Văn Lâm -
Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện CTQGHCM, Hà Nội, 2003.
- “Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng
sông Cửu Long” của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học, 2005.
- “Một số giải pháp tín dụng nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào khu công
nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc” của tác giả Hà Thạch - Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học
Đà Nẵng, 2005
- “Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng nam góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh” của TS. Võ Văn Lâm - Tạp chí Cộng
sản, số 7 (tháng 4/2006).
Các công trình khoa học có các cách tiếp cận khác nhau về vấn đề nghiên cứu.
Nhằm làm rõ hơn sự tác động của vốn tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy CDCCKT
trên địa bàn tỉnh, tác giả chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu với hy vọng góp phần
nhỏ vào việc phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa vốn tín dụng ngân hàng
với quá trình CDCCK. Đề xuất các giải pháp không ngừng mở rộng tín dụng ở
NHNo&PTNT Quảng Nam phục vụ quá trình CDCCKT trên địa bàn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá để làm sáng tỏ một số vấn đề về tác động của vốn tín dụng ngân hàng
với sự CDCCKT theo hướng CNH, HĐH.
- Phân tích đánh giá thực trạng tín dụng ở NHNo&PTNT Quảng Nam đối với sự
CDCCKT trên địa bàn trong thời gian qua, chỉ ra những vướng mắc cần tháo gỡ và nguyên
nhân của thực trạng đó.
- Kiến nghị, đề xuất các giải pháp tín dụng ở NHNo&PTNT Quảng Nam góp phần
CDCCKT trên địa bàn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tuợng: Nghiên cứu về tác động của vốn tín dụng NHNo&PTNT với sự
CDCCKT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào sự tác động đến 3 loại cơ cấu: cơ cấu ngành và nội
bộ ngành sản xuất trong cơ cấu GDP (cụ thể là ba khu vực chính trong nền kinh tế: nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ), cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu xuất nhập khẩu. Thời gian khảo sát
chủ yếu từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình giải quyết các vấn đề của đề tài, sử dụng các phương pháp khoa học:
Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, thống kê, so
sánh, phân tích và tổng hợp, diễn giải và quy nạp nhằm làm rõ tính quy luật để rút ra kết luận về
những vấn đề được xem xét.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Luận giải tác động của vốn tín dụng ngân hàng với sự CDCCKT theo hướng
CNH, HĐH.
- Làm rõ tác động của vốn tín dụng NHNo&PTNT với sự CDCCKT trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua, phát hiện và chỉ ra được những vướng mắc cần tháo gỡ
cũng như nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp thiết thực, có tính khả thi về mở rộng tín dụng ở
NHNo&PTNT Quảng Nam góp phần CDCCKT trên địa bàn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
3 chương.
Chương 1
tác động của tín dụng ngân hàng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1. Cơ cấu kinh tế và yêu cầu về vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và những nhân tố tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế
* Khái niệm cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu hay kết cấu là một phạm trù triết học, phản ánh cấu trúc bên trong của một
sự vật, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành
nên sự vật đó trong một thời gian nhất định. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân (KTQD) là
tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế (các lĩnh vực sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng ); các ngành KTQD (công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, giao thông vận tải, y tế, giáo dục...); các thành phần kinh tế ( nhà nước, tập thể, tư
nhân, tư bản...); các vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế (CCKT) là tổng thể các ngành, lĩnh vực,
bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối
ổn định hợp thành[14, tr 15]. Trong thực tiễn, các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
trình độ phát triển của phân công lao động trong nước và quốc tế; quy luật lợi thế tuyệt đối
và lợi thế so sánh, lợi thế của nước đang phát triển; xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời
sống, lý thuyết về tái sản xuất và cân đối liên ngành... đã tác động với mức độ nhiều hoặc
ít khác nhau trên các phạm vi từ rộng đến hẹp trong việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (CDCCKT) của mỗi quốc gia từng thời kỳ nhất định. Vì vậy CCKT là một phạm
trù kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia qua các thời kỳ nhất định.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
CDCCKT là một quá trình đòi hỏi sự tác động phù hợp của nhân tố chủ quan của
con người bằng một hệ thống chính sách và biện pháp đồng bộ, tác động liên tục, phù hợp
với quy luật và điều kiện khách quan thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển CCKT
mới.
Thông thường chuyển dịch CCKT chỉ diễn ra khi:
- Có những thay đổi lớn về điều kiện phát triển;
- Có khả năng và giải pháp mới thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện
tại;
- Trong quan hệ phát triển giữa các bộ phận của CCKT có những trở ngại.
Như vậy, CDCCKT là quá trình làm biến đổi các yếu tố trong cấu trúc kinh tế và mối
quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành nền kinh tế theo một mục đích và phương hướng xác
định. Đó là sự thay đổi về lượng, thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế, các cấu trúc kỹ thuật công nghệ, lao động, đầu tư,... sao cho phù hợp
với qui luật khách quan, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới nhằm
làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Vì thế, CDCCKT không chỉ
đơn giản là thay đổi tốc độ và tỷ trọng trong cơ cấu chung của nền kinh tế, mà phải tạo ra
sự thay đổi về chất trong cơ cấu và trình độ phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành
phần,... để CCKT được chuyển dịch tới là CCKT hợp lý và hiệu quả nhất.
CDCCKT theo hướng CNH, HĐH là sự vận động và phát triển đi lên để tiếp cận
một CCKT phù hợp nhất, là phương tiện nhằm khai thác tối ưu lợi thế của các ngành, các
lĩnh vực, các vùng để thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế. Đó là quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên cơ sở phát triển cao của công nghiệp và
tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ở mức cao
nhất [14, tr 18]. Thực chất CDCCKT là làm biến đổi một nền kinh tế từ thấp đến cao,
từ không cân bằng đến cân bằng, đảm bảo vừa phát triển, vừa tăng trưởng nhanh, vừa
giải quyết vấn đề xã hội và phát triển con người toàn diện.
* Yêu cầu của chuyển dịch CCKT:
- Sử dụng tốt nhất lợi thế so sánh của quốc gia so với các nước khác trên thế giới (ví
dụ như Việt Nam có thế mạnh về du lịch phải tận dụng và phát triển tối đa ngành du lịch,
dịch vụ).
- Khai thác tối đa tiềm năng hiện có của quốc gia, vùng lãnh thổ trên cơ sở nguồn
tiềm lực sẵn có về tài nguyên, lao động... nhưng phải chú trọng đến bảo vệ môi trường sinh
thái.
- CDCCKT góp phần tạo nên khối lượng tích luỹ ngày càng lớn trong toàn bộ nền
kinh tế xã hội của đất nước.
- CDCCKT phải đi đôi với việc phát triển và ổn định nền văn hoá xã hội.
- CDCCKT phải kết hợp kinh tế trong nước với kinh tế thế giới trên cơ sở hợp tác
và hội nhập.
1.1.1.2. Những nhân tố tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự CDCCKT chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố kinh tế khách quan và chủ
quan.
- Trình độ phát triển của kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó nhu cầu của con người cần được thoả
mãn thông qua thị trường. Nhu cầu con người lại phụ thuộc vào việc nền kinh tế được phát
triển và chuyển dịch theo cơ cấu kinh tế như thế nào? Sản xuất cái gì? Sản xuất bằng công
nghệ gì và sản xuất cho ai? Trong nền “kinh tế chỉ huy tập trung”, các câu hỏi trên được
trả lời thông qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu và bao cấp gắn liền với một cơ
cấu kinh tế trì trệ, lạc hậu, kém năng động và thiếu hiệu quả. Khi nền kinh tế Việt nam
chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới thì câu trả lời
cho các câu hỏi trên chính là việc xây dựng, phát triển và chuyển dịch sang một CCKT
năng động, thích nghi với sự biến động của nhu cầu thị trường mà trong đó trình độ phát
triển kinh tế thị trường tỷ lệ thuận với trình độ phát triển và CDCCKT theo hướng CNH,
HĐH nền KTQD.
- Vị trí địa lý, tài nguyên, khí hậu:
Mỗi quốc gia có một vị trí địa lý, tài nguyên, khí hậu,... mang tính đặc thù. Nét đặc
thù này tác động mạnh đến quá trình CDCCKT. Việt Nam nằm ở vòng cung Châu á - Thái
Bình Dương có sự phát triển kinh tế nhạy bén, năng động đang có những ảnh hưởng rất
lớn đến nền kinh tế toàn cầu với quá trình chuyển dịch sự phát triển kinh tế từ Đại Tây
Dương sang Thái Bình Dương. Các nước nằm ven Thái Bình Dương đang có mức tăng
trưởng cao; có sản phẩm quốc dân bằng 1/6 thế giới; tổng mức ngoại thương chiếm 1/10
và trong vòng 10 năm tới có thể lên 1/2 của thế giới. Với vị trí lợi thế đó, Việt Nam đang
có những điều kiện thuận lợi để khai thác tốc độ phát triển và CDCCKT mở trong thời
gian tới. Đồng thời là một trong những nước phát triển muộn về công nghiệp, Việt Nam
hoàn toàn có lợi thế hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
[41]. Bên cạnh đó, tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong phú chưa được khai
thác nhiều. Các tài nguyên có trữ lượng khá bao gồm: khí hậu nhiệt đới, gió mùa; bờ biển
dài 3260 km với nhiều hải cảng quan trọng nằm trên tuyến đường thuỷ huyết mạch của thế
giới; tài nguyên đất và nước; năng lượng và khoáng sản; tài nguyên rừng biển... Đây là
một nhân tố cần coi trọng, liên quan chặt chẽ tới sự hình thành, vận động của quá trình
CDCCKT.
- Nhân tố kinh tế - xã hội:
Các quốc gia khác nhau có những thể chế chính trị, trình độ kinh tế, văn hoá xã hội
hoàn toàn khác nhau nên sự vận động và phát triển lực lượng sản xuất khác nhau và tác động
đến CDCCKT khác nhau. Việt Nam có dân số đông, có nền văn hoá lâu đời, người dân cần cù
lao động, chi phí nhân công thấp và nguồn lao động thiếu việc làm chiếm rất cao trên số lao
động xã hội. Điểm xuất phát của nền kinh tế thấp (sản xuất nhỏ là chủ yếu) lại chịu ảnh hưởng
nặng nề của chiến tranh, của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Các nhân tố trên
đồng thời cùng tác động trên cả hai mặt thuận lợi và khó khăn trong quá trình hình thành và
CDCCKT. Với dân số đông, người đến tuổi lao động nhiều thì nhu cầu lao động, nhu cầu việc
làm rất lớn tác động đến quy mô của CCKT khi bố trí trình độ cơ cấu kỹ thuật - công nghệ.
Hậu quả của chiến tranh, của CCKT cũ, làm hạn chế năng lực tích luỹ vốn trong nước sẽ là
nhân tố cản trở quá trình điều chỉnh khi chuyển dịch từ CCKT cũ sang CCKT mới...
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ:
Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ diễn ra trên thế giới và trong nước có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự biến đổi CCKT của mỗi quốc gia. Trước hết, nó làm thay đổi vị trí
của các ngành trong nền KTQD do khoa học kỹ thuật và công nghệ làm thay đổi vai trò
của nguyên liệu, vai trò của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi cần có quan điểm mới
trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong quá trình CDCCKT thực hiện mục tiêu
CNH, HĐH ở nước ta.
- Tiết kiệm và đầu tư vốn:
Tiết kiệm và đầu tư vốn là phương tiện để khai thác các nhân tố tác động của: kinh tế
thị trường, điều kiện tự nhiên, tiềm lực kinh tế - xã hội và tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ phục vụ cho CDCCKT. Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất
lao động thấp, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp, đời sống nhân dân lao động vẫn còn ở
mức độ thấp dẫn đến khả năng tiết kiệm và đầu tư vốn chiếm trong GDP còn hạn hẹp. Vì vậy,
thực hiện tiết kiệm để đầu tư là điều cần đặt lên hàng đầu để nâng tỷ trọng huy động vốn đầu
tư trong GDP từ 20% trở lên [42]. Đồng thời huy động vốn nước ngoài qua các hình thức đầu
tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp để đáp ứng các nhu cầu trung dài hạn của nền kinh tế (nhất là
xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc...). Ngoài ra một kênh huy động vốn không kém
phần quan trọng là việc huy động vốn thông qua hoạt động tín dụng phục vụ cho CDCCKT ở
nước ta.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ VI về trước, theo tư
duy cũ với những quan niệm không đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ đã hình
thành và tồn tại CCKT kém năng động, trì trệ lạc hậu và kém hiệu quả; một nền kinh tế
đơn nhất về thành phần kinh tế không khai thác được tiềm năng của toàn xã hội cho công
cuộc phát triển. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đến
nay nhiều quan điểm mới xuất hiện ngày càng rõ nét được cuộc sống chấp nhận và ủng hộ
đã tạo ra một bước ngoặt mới trong lịch sử nhận thức về chính trị, kinh tế ở nước ta. Một
loạt các quan điểm đổi mới được đưa ra như: đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát
triển kinh tế; phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước; thực hiện CCKT “mở”;
CNH gắn liền với HĐH; gắn sự nghiệp giáo dục đào tạo với khoa học - công nghệ...
Những quan điểm mới này thực sự trở thành nhân tố chính trị tác động rất quan trọng đến
việc hình thành vào CDCCKT ở nước ta hiện nay.
Giữa các nhóm nhân tố nói trên có quan hệ mật thiết với nhau và có tác động nhất
định đến việc hình thành và CDCCKT nên cần tính đến tất cả các tác động này thông qua
vai trò quản lý của Nhà nước. Do vậy, suy đến cùng, nhân tố bao quát mang tính hiện thực
của việc hình thành và CDCCKT là vai trò tác động của Nhà nước trên thực tế điều tiết vĩ
mô nền kinh tế.
1.1.2. Yêu cầu về vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa
- Xuất phát từ yêu cầu về vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng:
CNH, HĐH đất nước là cả một quá trình chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội từ
thủ công lạc hậu lên trình độ công nghiệp hiện đại. Ngày nay không thể tiến hành CNH
chỉ đơn giản là một quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành
KTQD trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quốc tế hoá sản xuất và
đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Để tiến hành CNH tránh nguy cơ tụt hậu, Đảng
ta đã xác định:
"Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển mạnh các ngành và
sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi
trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất
nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ
cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. Giảm chi phí trung
gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩ