Quá trình chuyển đổi hoạt động từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các
NHTM Việt Nam nói riêng gặp rất nhiều thách thức cũng như những cơ hội mới, hàng loạt
các vấn đề mới mà nổi bật là không khí cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và phức tạp.
Đòi hỏi các NHTM phải có những hoạt động để thích ứng với môi trường kinh doanh mới.
Một trong các giải pháp mà các NHTM Việt Nam sử dụng đó là áp dụng marketing.
Lí thuyết kinh doanh hiện đại đã thừa nhận rằng marketing là công cụ thiết yếu đối
với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, không thể thiếu được nếu muốn tồn tại
và phát triển.
Nhờ ứng dụng marketing trong hoạt động mà các NHTM Việt Nam đã từng bước
thích ứng được với thị trường, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và bước đầu gặt hái
được những thành công trong kinh doanh.
Thời gian tới Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập với khu vực và thế
giới. Việt Nam đã và đang hạ thấp hàng rào thuế quan, thiết lập và mở rộng mối quan hệ
với nhiều nước… đây là một cơ hội để NHTM Việt Nam mở rộng thị trường, học hỏi kinh
nghiệm kinh doanh, tăng chất lượng đội ngũ khách hàng. Nhưng cũng là một thách thức
lớn vì các NHTM Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế trong năng lực kinh doanh và khả
năng cạnh tranh. Để giải quyết tốt vấn đề này các NHTM Việt Nam cần thiết phải phát huy
hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng Marketing vào hoạt động kinh doanh.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội cũng hoạt động kinh doanh trong bối
cảnh chung giống như mọi NHTM Việt Nam khác hiện nay. Công cụ Marketing đã được
chi nhánh áp dụng trong hoạt động kinh doanh của mình, tuy vậy hiệu quả vẫn ch ưa
cao và còn rất nhiều hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện.
Với mong muốn ứng dụng thành công marketing nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng TMCP
á Châu Hà Nội nói riêng trong điều kiện hiện nay nên em đã chọn đề tài :
“Giải pháp nâng cao chất lượng công tác marketing tại chi nhánh Ngân hàng
TMCP á Châu Hà Nội”
Đề tài gồm 3 chương
Chương I : Công tác Marketing trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Chương II : Thực trạng công tác Marketing tại chi nhánh Ngân hàng á Châu Hà
Nội
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng công tác Marketing tại chi nhánh
Ngân hàng á Châu Hà Nộ
68 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng công tác marketing ở chi nhánh Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng công tác
marketing tại chi nhánh Ngân hàng TMCP
Á Châu Hà Nội
Lời nói đầu
Quá trình chuyển đổi hoạt động từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các
NHTM Việt Nam nói riêng gặp rất nhiều thách thức cũng như những cơ hội mới, hàng loạt
các vấn đề mới mà nổi bật là không khí cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và phức tạp.
Đòi hỏi các NHTM phải có những hoạt động để thích ứng với môi trường kinh doanh mới.
Một trong các giải pháp mà các NHTM Việt Nam sử dụng đó là áp dụng marketing.
Lí thuyết kinh doanh hiện đại đã thừa nhận rằng marketing là công cụ thiết yếu đối
với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, không thể thiếu được nếu muốn tồn tại
và phát triển.
Nhờ ứng dụng marketing trong hoạt động mà các NHTM Việt Nam đã từng bước
thích ứng được với thị trường, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và bước đầu gặt hái
được những thành công trong kinh doanh.
Thời gian tới Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập với khu vực và thế
giới. Việt Nam đã và đang hạ thấp hàng rào thuế quan, thiết lập và mở rộng mối quan hệ
với nhiều nước… đây là một cơ hội để NHTM Việt Nam mở rộng thị trường, học hỏi kinh
nghiệm kinh doanh, tăng chất lượng đội ngũ khách hàng. Nhưng cũng là một thách thức
lớn vì các NHTM Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế trong năng lực kinh doanh và khả
năng cạnh tranh. Để giải quyết tốt vấn đề này các NHTM Việt Nam cần thiết phải phát huy
hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng Marketing vào hoạt động kinh doanh.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội cũng hoạt động kinh doanh trong bối
cảnh chung giống như mọi NHTM Việt Nam khác hiện nay. Công cụ Marketing đã được
chi nhánh áp dụng trong hoạt động kinh doanh của mình, tuy vậy hiệu quả vẫn chưa
cao và còn rất nhiều hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện.
Với mong muốn ứng dụng thành công marketing nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng TMCP
á Châu Hà Nội nói riêng trong điều kiện hiện nay nên em đã chọn đề tài :
“Giải pháp nâng cao chất lượng công tác marketing tại chi nhánh Ngân hàng
TMCP á Châu Hà Nội”
Đề tài gồm 3 chương
Chương I : Công tác Marketing trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Chương II : Thực trạng công tác Marketing tại chi nhánh Ngân hàng á Châu Hà
Nội
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng công tác Marketing tại chi nhánh
Ngân hàng á Châu Hà Nội
Chương 1
Tổng quan về marketing trong hoạt động kinh doanh của các NHTM
1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM
Mỗi nước có một quan niệm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại tất cả đều
coi NHTM là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và cung cấp các dịch vụ có liên
quan đến tiền tệ.
ở Việt Nam NHTM được hiểu là “tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Trên thực tế các NHTM của Việt Nam, đặc biệt là các NHTM quốc doanh đang
thực hiện đồng thời các hoạt động của một NHTM và những hoạt động “bảo trợ” có
tính chất xã hội của chính phủ như cho vay phát triển doanh nghiệp nhà nước, cho vay
ưu đãi đối với một số đối tượng dân cư và thành phần kinh tế. Được coi là ngân hàng
thực hiện các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận tiền gửi, cho vay, đầu
tư… và thực hiện một số dịch vụ như thanh toán, môi giới, tư vấn…
1.1.2. Các nghiệp vụ của NHTM
1.1.2.1. Nghiệp vụ nợ
Đây là nghiệp vụ quan trọng đối với NHTM, nó chính là cơ sở hình thành nên
nguồn vốn cho hoạt động của ngân hàng. Hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt vì trên cơ sở
nguồn vốn huy động được ngân hàng mới có thể thực hiện được các nghiệp vụ sau này.
Nghiệp vụ này gồm các hoạt động chủ yếu sau :
Huy động vốn
Nguồn vốn huy động của ngân hàng gồm tài khoản tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết
kiệm từ các chủ thể trong nền kinh tế.
- Tiền gửi giao dịch : là tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có thể sử dụng với mục
đích thanh toán cho khách hàng của họ thông qua các hình thức thanh toán và họ cũng có
thể rút ra vào bất kì lúc nào
- Tiền gửi tiết kiệm : là tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản không sử dụng để thanh
toán, họ được hưởng thu nhập thông qua lãi suất. Nguồn vốn này có chi phí cao hơn tiền
gửi giao dịch nhưng lại là nguồn vốn ổn định, đảm bảo cho các ngân hàng chủ động trong
việc sử dụng vốn.
Hoạt động vay vốn
Các NHTM ngoài việc huy động vốn còn có thể đi vay để đáp ứng cho nhu cầu kinh
doanh. Đây là nguồn vốn có chi phí đắt nhất trong các loại nguồn vốn của ngân hàng.
Hoạt động này giúp cho ngân hàng đối phó với những khó khăn phát sinh. Ngân
hàng thường đi vay từ ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng. Thông thường
thì quy mô và mục đích sử dụng đã được xác định trước. Ngoài ra các NHTM còn
có thể phát hành trái phiếu, kì phiếu, vay trên thị trường liên ngân hàng để đáp ứng
nhu cầu của khách hàng.
Ngoài các hình thức trên ngân hàng còn có thể nhân được vốn uỷ thác từ chính phủ,
từ các tổ chức đầu tư quốc tế, các tổ chức nhân đạo…để thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội.
1.1.2.2. Nghiệp vụ có (hoạt động sử dụng vốn)
Nếu như hoạt động huy động vốn là điều kiện cho việc thực hiện các hoạt động
khác của các NHTM thì hoạt động sử dụng vốn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Hoạt động mang lại phần chính lợi nhuận của các NHTM. Khi thực hiện hoạt
động này ngân hàng phải đảm bảo cơ cấu tài sản phù hợp với nguồn vốn huy động nhằm
đạt được mức lợi nhuận cao nhất và đảm bảo hoạt động an toàn. Để thực hiện tốt các mục
tiêu này đòi hỏi các NHTM phải có chính sách đầu tư, tín dụng thích hợp, kết hợp quản lí
nguồn vốn và tài sản, tuân thủ các quy định của pháp luật và sự chỉ đạo của ngân hàng
trung ương. Hoạt động này gồm:
Hoạt động ngân quỹ
Là hoạt động đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cho khách hàng của ngân
hàng. Hoạt động này được thể hiện ở khoản mục dự trữ trên bảng cân đối tài sản. Hầu hết
các tài sản dự trữ đều không sinh lợi hoặc có khả năng sinh lời thấp nhưng bù lại nó có
tính lỏng rất cao, đáp ứng kịp thời cho thanh toán của ngân hàng.
Hoạt động cho vay:
Đây là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Nó là hoạt động
quan trọng nhất thể hiện một trong các chức năng cơ bản của NHTM là cho vay đối với
nền kinh tế qua đó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên đây là tài sản có tính lỏng
kém và mức độ rủi ro cao. Vì vậy trong quản lí hoạt động cho vay cần xây dựng một chính
sách tín dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của ngân hàng, nhu cầu của nền kinh tế,
tuân thủ các nguyên tắc về quản lí cho vay, quy trình nghiệp vụ tín dụng và triệt để tuân
theo các quy định của ngành ngân hàng, của pháp luật.
Hoạt động đầu tư
Cùng với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư là hoạt động đem lại nguồn thu nhập
quan trọng thứ hai của ngân hàng. Ngân hàng đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn có
tính lưu hoạt cao hoặc đầu tư vào các chứng khoán có tính tính thanh khoản thấp hơn ( kì
hạn dài hơn ) nhưng bù lại là mức lợi tức cao hơn.
Nếu hoạt động cho vay là hoạt động giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng với khách
hàng và thường là khách hàng chủ động yêu cầu, thì trong hoạt động đầu tư ngân hàng lại
chủ động lựa chọn trong số các chứng khoán hiện có. Với hoạt động này ngân hàng nhằm
mục tiêu đa dạng, lợi tức và trợ giúp về tính thanh khoản ( dự trữ thứ cấp )…Để hoạt động
đầu tư của ngân hàng thành công đòi hỏi một chính sách đầu tư đúng đắn, thu được lợi
nhuận, có được tính lỏng cao và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro.
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian
Cùng với hoạt động huy động vốn và cho vay là việc ngân hàng thực hiện các nghiệp
vụ trung gian. Ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng trên cơ sở đó ngân hàng
thu được phí nhưng quan trọng hơn là việc tạo điều kiện để thu hút khách hàng, nhằm tăng
khả năng cạnh tranh. Chất lượng của các dịch vụ ngày nay vô cùng quan trọng nó quyết
định đến hình ảnh và uy tín của ngân hàng, là cơ sở thắt chặt mối quan hệ giữa ngân hàng
với khách hàng.
Cả 3 hoạt động là huy động vốn, sử dụng vốn và nghiệp vụ trung gian có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau trong tổng thể các hoạt động của NHTM. Chúng có mối quan hệ
tương tác lẫn nhau. Vì vậy trong hoạt động của một NHTM luôn phải xây dựng được chiến
lược- kế hoạch tổng thể có sự phối hợp đồng bộ giữa các mặt hoạt động nhằm mang lại lợi
ích tối đa.
1.2. Marketing trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1. Marketing - sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá
Sự phát triển của xã hội loài người trải qua 2 hình thức kinh tế là kinh tế tự nhiên và
kinh tế hàng hoá mà giai đoạn phát triển cao nhất của nó là kinh tế thị trường.
Như vậy, kinh tế thị trường là bước phát triển tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Nền
kinh tế thị trường khác với nền kinh tế khác ở chỗ tất cả các quyết định kinh tế quan trọng
đều do thị trường chi phối. Mặt khác, trên thị trường luôn diễn ra mối quan hệ trao đổi
giữa người mua và người bán về các nguồn lực, hàng hoá, dịch vụ. Trong mối quan hệ
này, người mua đóng vai trò chi phối. Đây là đặc điểm mấu chốt của nền kinh tế thị
trường. Vai trò quyết định của người mua được thể hiện thông qua 3 câu hỏi đặt ra cho
người sản xuất (người bán): sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Như
vậy, nhu cầu của người mua có vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh; đồng thời
làm nền tảng cho hoạt động Marketing.
Vậy, Marketing là gì? Theo Phillip Kotler thì: Marketing là một dạng hoạt động của
con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ thông qua trao đổi...Tuy
nhiên, dù được diễn đạt dưới hình thức nào, các học giả đều thống nhất rằng: Marketing là
quá trình đẩy mạnh các hoạt động nhằm mục đích đưa được đúng sản phẩm đến đúng nơi,
vào đúng thời gian, với đúng giá cả đến khách hàng để kiếm lợi nhuận cho chính mình.
1.2.2. Chức năng và vai trò của Marketing
Marketing có 4 chức năng:
Thứ nhất, chức năng thích ứng tức là Marketing phải tham gia vào việc làm cho sản
phẩm của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu thị trường. Muốn vậy, marketing phải tiến
hành các hoạt động thu thập thông tin về nhu cầu thị trường và xu hướng biến động của nó.
Từ đó phối hợp, thống nhất, kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp (thống kê kĩ thuật, sản
xuất, tiêu thụ) và gắn chúng với nhu cầu thị trường.
Thứ hai, chức năng phân phối: chức năng này bao gồm toàn bộ các hoạt động nhằm
tổ chức tốt nhất việc đưa các sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ ba, chức năng tiêu thụ: thông qua chức năng này Marketing tham gia vào việc
xây dựng và điều hành chính sách giá theo tín hiệu thị trường, chỉ ra các nghĩa vụ và nâng
cao nghệ thuật bán hàng.
Thứ tư, chức năng yểm trợ là tiến hành các hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi
cho thực hiện tốt 3 chức năng trên và nâng cao khả năng kinh doanh. Hoạt động yểm trợ
bao gồm: hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng và các hoạt động yểm trợ khác.
Marketing có vai trò quan trọng đặc biệt trong quản lý kinh tế cả tầm vĩ mô và vi mô.
Quản lý vĩ mô, thông qua nghiên cứu thị trường, Marketing đã xác định và dự báo
được sự biến động nghiên cứu của nền kinh tế. Bởi vậy, nó đã trở thành cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng và điều hành chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Quản lý vi mô, Marketing đã trở thành công cụ quan trọng đảm bảo cho sự thành
công trong kinh doanh, chính vì vậy mà ngay từ khi mới ra đời, các chủ doanh nghiệp đã
nắm lấy công cụ quan trọng này để quản lý quá trình kinh doanh của mình và sử dụng nó
cho việc xác định chiến lược của công ty.
1.2.3. Marketing chuyên sâu
Đó là sự vận dụng Marketing vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội. Đó cũng chính là sự phát triển của Marketing từ cổ điển đến hiện đại, từ
Marketing thương mại đến các lĩnh vực khác. Như vậy, Marketing chuyên sâu được hình
thành trên cơ sở Marketing hiện đại nhưng có sự thay đổi điều chỉnh cho phù hợp với từng
lĩnh vực củ thể.
Các lĩnh vực chuyên sâu của Marketing chia thành: Marketing mậu dịch: Marketing
công nghiệp, thương mại, xuất nhập khẩu, quốc tế, du lịch, ngân hàng…; Marketing phi
mậu dịch: Marketing hành chính và dịch vụ công cộng là Marketing trong các tổ chức hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận.
1.3. Marketing với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
1.3.1 Khái niệm về marketing Ngân hàng
áp dụng vào lĩnh vực Ngân hàng: hoạt động Marketing được mô tả như một số hoạt
động nhằm hiểu biết thấu đáo nhu cầu của khách hàng để từ đó phát triển kinh doanh, thiết
lập cơ chế vay và cho vay thuận tiện hơn, khuyến khích mua thẻ tín dụng, quảng cáo, thúc
đẩy tối đa dịch vụ bán lẻ, quan hệ với công chúng và nghiên cứu sản phẩm đây là các loại
hoạt động hướng đến khách hàng nhằm thu hút khách hàng. Để thu hút được khách hàng,
các hoạt động Marketing cần phải chú ý tác động đến cả 3 giai đoạn: Giai đoạn trước khi
giao dịch, trong khi giao dịch và sau khi giao dịch. Do sản phẩm của ngân hàng là vô hình
nên khách hàng không thể nhìn thấy trước, cũng như đánh giá chất lượng của dịch vụ mà
họ sẽ mua. Động cơ dẫn đến quá trình giao dịch của khách hàng với Ngân hàng phải dựa
vào các thông tin mà họ nhận được trong giai đoạn trước khi giao dịch và thông tin này
phải tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh. Để đạt được mục tiêu này, các nhà Marketing cần
chú ý đến các hoạt động: quảng cáo, cung cấp thông tin.... Tiếp đến, trong giai đoạn giao
dịch với Ngân hàng, nếu không có các hoạt động Marketing nhằm nâng cao chất lượng
dịch vụ mà họ nhận được như rút ngắn tối đa thời hạn giao dịch, nhân viên phục vụ tận
tình, chu đáo, nơi làm việc thuận tiện, khang trang...thì việc duy trì các giao dịch tiếp theo
là rất khó. Và tất nhiên sau khi giao dịch, ngay cả khi khách hàng đã hài lòng với dịch vụ
mà họ nhận được, thì các nhà Marketing vẫn phải tiếp tục nuôi dưỡng sự hài lòng đó. Nếu
không khách hàng sẽ rơi vào tay của Ngân hàng khác.
Hoạt động Marketing được coi là đạt kết quả khi nó thoả mãn được nhu cầu của
khách hàng, đồng thời cũng phải cản phá thành công các hoạt động Marketing của đối thủ
cạnh tranh. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải bỏ ra lượng chi phí lớn, nên cần phải tính toán, cân
nhắc để thực hiện các chương trình Marketing phù hợp với khả năng nguồn lực của ngân
hàng mình nếu không muốn rơi vào tình trạng phá sản. Một chương trình Marketing khéo
léo, thu hút được nhiều khách hàng song lợi nhuận thu về từ các khách hàng lại không đủ
bù đắp chi phí Marketing thì chương trình Marketing đó coi như không hiệu quả.
Qua đây ta thấy: Marketing Ngân hàng là toàn bộ các hoạt động gắn kết với nhau, phù
hợp với môi trường kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp cho phép, theo định hướng
khách hàng và thị trường nhằm thoả mãn hài hoà cả nhu cầu của khách hàng và ngân
hàng theo nguyên tắc trao đổi.
1.3.2. Đặc điểm của marketing Ngân hàng
Marketing ngân hàng là một loại hình marketing chuyên sâu được hình thành trên cơ
sở vận dụng nội dung, phương châm, nguyên tắc, kĩ thuật, quan điểm của marketing hiện đại
vào hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Marketing ngân hàng có những đặc điểm khác biệt so với
Marketing thuộc các lĩnh vực khác.
1.3.2.1 Marketing ngân hàng là loại hình marketing dịch vụ tài chính
Ngân hàng là ngành kinh doanh dịch vụ. Hoạt động Marketing ngân hàng thuộc loại
hình Marketing dịch vụ, hoạt động Marketing ngân hàng cần được hoạch định xoay quanh
các đặc điểm của sản phẩm dịch vụ nói chung:
+ Tính vô hình: Để tăng tín hiệu tốt tác động đến khách hàng, hoạt động Marketing
buộc phải hướng vào các yếu tố có thể quan sát, cảm nhận được ngoài bản thân dịch vụ
được cung ứng như : địa điểm cung ứng dịch vụ khang trang, nhân viên cung ứng dịch vụ
thông thạo, khéo léo trong giao tiếp, thời gian chờ đợi không quá lâu...
+ Tính không tách rời: Quá trình cung ứng dịch vụ luôn diễn ra đồng thời với quá
trình tiêu dùng của khách hàng. Khách hàng cũng có mặt khi dịch vụ được thực hiện nên
sự tác động qua lại giữa người cung ứng dịch vụ và khách hàng là một tính chất đặc biệt
của Marketing dịch vụ. Cả hai bên đều có thể tác động ảnh hưởng đến kết quả của dịch vụ.
+ Tính không ổn định về chất lượng: Dịch vụ ngân hàng phụ thuộc phần lớn vào
nhân tố con người, là nhân tố không ổn định dẫn đến chất lượng dịch vụ không ổn định.
Khắc phục bằng cách: Các giải pháp Marketing cần hướng vào việc đào tạo, huấn luyện
nhân viên làm việc theo kịch bản, tăng cường tự động hoá quá trình cung ứng dịch vụ
nhằm giảm thiểu xuống thấp nhất tính chất này.
+ Tính không lưu giữ được: Dịch vụ ngân hàng không thể sản xuất sẵn rồi lưu kho
như các sản phẩm khác. Hoạt động Marketing cần theo hướng điều chỉnh nhịp độ cung
ứng theo kịp nhịp độ mua như rút ngắn thời gian một giao dịch, tăng cường nhân viên
cung ứng tại giờ cao điểm, kéo dài thời gian cung ứng: 24/ 24 giờ.
1.3.2.2. Marketing ngân hàng là loại hình marketing hướng nội
Thực tế cho thấy rằng, so với Marheting các lĩnh vực khác, Marketing phức tạp
hơng nhiều bởi tính đa dạng, nhạy cảm của hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quá trình cung
ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự tham gia đồng thời của cả cơ sở vật chất, khách
hàng và nhân viên ngân hàng. Nhân viên là yếu tố quan trọng trong quá trình cung ứng,
chuyển giao sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Họ giữ vai trò quyết định cả về số lượng, kết
cấu chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng và cả mối quan hệ giữa khách hàng với ngân
hàng. Chính họ tạo nên sự khác biệt hoá, tính cách của hàng hoá của sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, tăng giá trị thực tế của sản phẩm dịch vụ cung ứng, khả năng thu hút
khách hàng vàn vị thế cạnh tranh cuả ngân hàng. Những biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của toàn bộ nhân viên ngân hàng theo định hướng phục vụ
khách hàng ngày càng tốt hơn được gọi là Marketing hướng nội.
1.3.2.3. Marketing ngân hàng thuộc loại marketing quan hệ
Marketing quan hệ đòi hỏi bộ phận Marketing phải xây dựng được những mối quan
hệ bền lâu, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng bằng việc
luôn giữ đúng những cam kết, cung cấp cho nhau những sản phẩm dịch vụ cao với giá cả
hợp lí, tăng cường các mối quan hệ về kinh tế, kĩ thuật, nâng cao sự tin tưởng giúp nhau
cùng phát triển. Thực tế cho thấy, trong hoạt động ngân hàng, có khá nhiều hoạt động đan
xen, phức tạp. Do vậy, đòi hỏi bộ phận Marketing phải hiểu được các mối quan hệ giữa
khách hàng vơi ngân hàng và sự tác động qua lại giữa chúng để có các biện pháp khai thác,
kết hợp hài hoà nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của cả khách hàng và ngân hàng.
1.3.3. Chức năng của bộ phận Marketing ngân hàng
Chức năng của Marketing ngân hàng là những tác động vốn có bắt nguồn từ bản
chất khách quan và tác động của nó đối với quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân
hàng. Chức năng cũng là những nhiệm vụ, công việc mà bộ phận Marketing phải thực hiện
trong suốt quá trình hoạt động của mình. Do vậy, chức năng là yếu tố quyết định sự tồn tại
và hoạt động của Marketing, đồng thời cũng là căn cứ để kiểm tra, đánh gía kết quả hoạt
động của bộ phận Marketing. Marketing có những chức năng chủ yế sau:
1.3.3.1. Chức năng làm cho sản phẩm dịch vụ ngân hàng thích ứng với nhu cầu
của thị trường.
Chức năng thích ứng thể hiện ở việc làm cho sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng
đáp ứng hiệu quả nhu cầu của khách hàng, đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích, tạo được
sự tín nhiệm của khách hàng. Thực hiện được chức năng này, đòi hỏi bộ phận Marketing
phải nghiên cứu thị trường, xác định được nhu cầu đích thực của khách hàng, từ đó thiết
kết sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho phù hợp. Ngày nay, nhu cầu về các sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng ngày càn