Thuế là một công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
nói chung; doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riên trong cơ chế thị trường. Thuế có tác
động đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo hai khía cạnh: thúc đẩy hoặc kìm hãm phát
triển. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành và sủa đổi nhiều luật thuế với mục tiêu khuyến khích
thành phần kinh tế này phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh có hiện trạng sau:
- Thuế chồng chéo làm cho giá cả sản phẩm còn cao.
- Tình trạng thất thu thuế cho ngân sách còn lớn.
- Tình trạng trốn thuế, gian lận thuế còn diễn ra phổ biến.
Ngoài ra, thuế không chỉ là vấn đề vĩ mô mà còn là những vấn đề vi mô rất nhạy
cảm. Thuế luôn là vấn đề được Nhà nước; các nhà kinh doanh, nhà đầu tư và người dân
quan tâm. Việc sử dụng công cụ thuế là chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước nhưng lại
rất cần có sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống sử dụng công cụ thuế là hoàn toàn cần thiết.
Xuất phát từ những đòi hỏi đó, em lựa chọn đề tài: " Hoàn thiện việc sử dụng
cụng cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc
doanh ở Việt Nam " làm luận văn Thạc sỹ của mình.
96 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện việc sử dụng cụng cụ thuế trong
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công
nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
nói chung; doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riên trong cơ chế thị trường. Thuế có tác
động đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo hai khía cạnh: thúc đẩy hoặc kìm hãm phát
triển. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành và sủa đổi nhiều luật thuế với mục tiêu khuyến khích
thành phần kinh tế này phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh có hiện trạng sau:
- Thuế chồng chéo làm cho giá cả sản phẩm còn cao.
- Tình trạng thất thu thuế cho ngân sách còn lớn.
- Tình trạng trốn thuế, gian lận thuế còn diễn ra phổ biến.
Ngoài ra, thuế không chỉ là vấn đề vĩ mô mà còn là những vấn đề vi mô rất nhạy
cảm. Thuế luôn là vấn đề được Nhà nước; các nhà kinh doanh, nhà đầu tư và người dân
quan tâm. Việc sử dụng công cụ thuế là chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước nhưng lại
rất cần có sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống sử dụng công cụ thuế là hoàn toàn cần thiết.
Xuất phát từ những đòi hỏi đó, em lựa chọn đề tài: " Hoàn thiện việc sử dụng
cụng cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc
doanh ở Việt Nam " làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Khái quát lý luận việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Phân tích thực trạng và đề xuất việc hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong
quản lý nhà nước đối với DN công nghiệp ngoài quốc doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là hệ thống thuế đối với DNCNNQD.
Doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh được đề cập ở đây là những doanh
nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất kinh doanh công nghiệp mà vốn sở hữu của thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm lớn nhất.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng tập trung vào hệ thống thuế với tư cách là một
công cụ quản lý. Luận văn không đi sâu nghiên cứu vào các công cụ quản lý khác để tập
trung vào mục đích chính của luận văn là công cụ thuế.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn phân tích về quản lý nhà nước thông qua công cụ thuế. Việc sử dụng
công cụ này diễn ra trên cả ba phương diện về chính sách thuế, cơ chế quản lý thuế và bộ
máy quản lý thuế. Những phương pháp phân tích tác động thuế theo lý thuyết kinh tế học
tiên tiến như phân tích về độ trễ của thuế; sự mất trắng của thuế.
- Phân tích thực trạng sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Từ đó, luận văn tổng kết những đánh giá về ưu
nhược điểm của hệ thống thuế gồm cả nhược điểm của từng sắc thuế lẫn nhược điểm của
hệ thống thuế.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý của
Nhà nước đối với các DNCNNQDD ở Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Luận cứ khoa học về sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
Chương 2: Thực trạng sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý của Nhà
nước đối với các DN công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
Chương 1
Luận cứ khoa học về sử dụng công cụ thuế
trong quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
1.1. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1. Doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh.
"Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh" [31].
Doanh nghiệp công nghiệp là những doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản
xuất-kinh doanh theo phương pháp công nghiệp để sản xuất ra hàng hóa dịch vụ nhằm thỏa
mãn nhu cầu của con người và xã hội. Như vậy, nhiều sản phẩm công nghiệp sẽ không
phải chỉ do các doanh nghiệp sản xuất ra.
Tuy nhiên, tùy theo từng lĩnh vực và khía cạnh quản lý còn có những khái niệm về
doanh nghiệp sau đây:
- Dưới giác độ quản lý, DN là một đơn vị kinh tế do Nhà nước hoặc các đoàn thể
hoặc tư nhân đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước.
Hiểu theo cách này thì các DN bao hàm cả DNNN và DNNQD nhưng không nhấn mạnh đến
các DN có yếu tố nước ngoài.
- Dưới giác độ luật pháp, doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế có tên, có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh. Hiểu theo cách này thì DN sẽ bao gồm toàn bộ
các loại hình DN kể cả DN có vốn đầu tư nước ngoài. Các hoạt động kinh doanh ở đây được
hiểu là việc thực hiện một hoặc một số công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, cách khái quát này lại không
nhấn mạnh đến các doanh nghiệp công ích hoặc các DNQD chuyên hoạt động công ích.
Như vậy, DN phải là một tổ chức tiến hành các hoạt động kinh doanh để kiếm lời.
Doanh nghiệp có thể có những hoạt động không sinh lời trong những trường hợp cụ thể
nào đó nhưng bản chất được thành lập ra là để kiếm lời. Việc phân định giữa doanh nghiệp
quốc doanh (DNNN) và DNNQD còn có nhiều quan điểm khác nhau, những khái niệm
trên đây hầu như nhấn mạnh hơn về mặt kinh doanh của các doanh nghiệp. Đây chính là
một trong những đặc điểm quan trọng nhất của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp nhà nước sẽ bao gồm cả các doanh nghiệp công ích và các doanh
nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước không hẳn sẽ chỉ là các doanh nghiệp nhà
nước sở hữu và kiểm soát 100%, mà sẽ gồm cả những doanh nghiệp hỗn hợp nếu Nhà
nước có tỷ trọng vốn lớn nhất và có quyền kiểm soát thực hiện mục tiêu kinh doanh và
nghĩa vụ công ích. Chính vì vậy, nếu gọi là DNNN sẽ không phân biệt được chính xác
ranh giới giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu hỗn hợp. Ngược lại, DNNQD chủ yếu là các
DN kinh doanh nhưng cũng có lúc sẽ làm những công việc công ích. Các DNNQD cũng có
rất nhiều hình thức sở hữu, cách kiểm soát và loại hình kinh doanh. Nói đến DNQD và
DNNQD là chủ yếu nói đế sự phân định về sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều
kiện nền kinh tế phát triển đa dạng thì hiểu theo khái niệm đó sẽ khó phân định được các
loại hình doanh nghiệp đa sở hữu. Chính vì vậy, để phân biệt DNQD và DNNQD phải
xem xét trên nhiều khía cạnh khác của DN, đặc biệt là vấn đề sở hữu và quyền kiểm soát.
Tóm lại, DNCNNQD là một tổ chức kinh tế không thuộc sở hữu hoàn toàn hoặc
sở hữu khống chế của Nhà nước, có tên, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định và đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong
sản xuất kinh doanh công nghiệp.
DNCNNQD là những DNCN không thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc sở hữu
khống chế của Nhà nước (Nhà nước sở hữu trên 50%). Ngoài ra, luật còn quy định các
doanh nghiệp là DNNN khi Nhà nước sở hữu số vốn lớn gấp đôi sở hữu tư nhân lớn nhất.
Tuy nhiên, dưới giác độ nghiên cứu về thuế thì sở hữu khống chế ở đây được hiểu là quyền
sở hữu của Nhà nước gắn liền với quyền kiểm soát và sử dụng doanh nghiệp đó như là
công cụ điều tiết của Nhà nước. Như vậy, ranh giới DNNQD và quốc doanh sẽ rõ ràng hơn
khi Nhà nước có nắm quyền kiểm soát và sử dụng doanh nghiệp đó khi cần thiết hay
không. Mục đích chính của sở hữu của Nhà nước cũng là nhằm khống chế và sử dụng
doanh nghiệp để điều tiết. Cách hiểu này sẽ nảy sinh vấn đề khi phân định loại hình doanh
nghiệp trong hai trường hợp sau:
Một là: Các doanh nghiệp trong đó Nhà nước chiếm tỷ trọng vốn lớn nhất với tư
cách là phân chia lợi nhuận đơn thuần và Nhà nước không có mục đích sử dụng doanh
nghiệp đó như là công cụ điều tiết.
Hai là: Các doanh nghiệp, trong đó các thành phần kinh tế khác có chiếm phần sở
hữu lớn hơn Nhà nước nhưng họ chỉ có mục đích thu lợi nhuận đơn thuần nên Nhà nước
vẫn duy trì quyền kiểm soát và điều tiết.
Những tình huống đặc biệt làm nảy sinh ranh giới phân chia DNQD và DNNQD
không đơn thuần là tên gọi mà phải phân tích sâu xa hơn về bản chất của những loại hình
này. Hai trường hợp trên thực chất là những tình huống cụ thể. Trường hợp thứ nhất, vẫn
nên coi là DNQD vì xét theo giác độ luật pháp thì Nhà nước có quyền điều tiết DN này
nhưng có thể chưa tiến hành sử dụng làm công cụ điều tiết trong một giai đoạn nào đó.
Trong trường hợp thứ hai thì ngược lại, Nhà nước chỉ tận dụng sở hữu vốn của mình tại
DN đó để tham gia điều tiết trong từng giai đoạn cụ thể. Về bản chất, thì sở hữu tư nhân
lớn nhất vẫn có quyền phủ quyết mặc dù họ có thể chưa sử dụng quyền hợp pháp này. Vì
vậy, tiêu chí phân định loại hình DNQD và DNNQD chính là hình thức sở hữu vốn.
Quyền kiểm soát sẽ là đặc trưng cơ bản của DNQD nên có thời điểm Nhà nước sử dụng
cũng có thời điểm Nhà nước không sử dụng.
1.1.2. Đặc trưng của doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
Trong công nghiệp, doanh nghiệp có nhiều loại hình khác nhau. Nếu căn cứ vào
hình thức sở hữu vốn, có doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh (Nay gọi là doanh nghiệp
công nghiệp Nhà nước - DNCNNN) và DNCNNQD. DNCNNQD như phân tích ở trên chủ
yếu bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, liên doanh v.v...
Nếu chia theo quy mô của DN, có ba loại DN là DN quy mô lớn, DN quy mô vừa
và DN quy mô nhỏ.
Nếu chia theo ngành hoạt động, có các doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp
nông nghiệp và doanh nghiệp dịch vụ, du lịch, v.v..
Nếu chia theo chức năng hoạt động, có doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp kinh
doanh, doanh nghiệp dịch vụ tư vấn v.v...
Tuy nhiên, nội dung của luận văn chỉ đề cập chủ yếu đến các loại hình doanh
nghiệp chia theo hình thức sở hữu vốn và ngành hoạt động. Kết hợp hai tiêu chí này sẽ có
các loại hình doanh nghiệp sau: DNCNQD, DNCNNQD ( bao gồm DN tư nhân và các loại
hình DN hợp tác: DN cổ phần, TNHH nhiều thành viên, hợp tác xã).
Xét theo cách tiếp cận vi mô: Các DNCNNQD có những nét đặc trưng riêng do
tính chất hình thức sở hữu của nó quyết định. Hình thức sở hữu Nhà nước cũng có nhiều
hình thức từ thấp đến cao và hình thức hợp tác giữa Nhà nước với tư nhân cũng ở nhiều
mức độ. Căn cứ vào các đặc trưng về vốn, sở hữu và quyền kiểm soát quản lý để phân biệt
giữa DNNN và DNNQD. Khái niệm DNCNNQD ở đây được hiểu là những DN không
thuộc quyền sở hữu và chi phối chủ yếu của Nhà nước.
Xét theo cách tiếp cận vĩ mô: DNCNNQD là các DN kinh doanh và DNCNQD là
các doanh nghiệp công ích.
Các DNCCNNQD chủ yếu theo đuổi các mục tiêu kinh tế còn các DN công ích
ngoài chức năng kinh doanh sẽ còn phải thực thi các mục tiêu kinh tế-xã hội. Sự khác nhau
cơ bản ở đây là mục tiêu hoạt động của DN. Mục tiêu kinh tế - xã hội là mục tiêu chính
của DN quốc doanh. Xu hướng Nhà nước cũng chỉ cần nắm giữ các DN có vai trò đặc biệt
trong nền kinh tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước với nền kinh tế. Trên cơ sở
các trình bày trên và quan điểm của các nhà kinh tế học trong nước và trên thế giới có thể
đưa ra những đặc trưng cơ bản của hai loại hình doanh nghiệp này như bảng 1.1.
Bảng 1.1: Các đặc trưng của DNCNQD và DNCNNQD
TT Tiêu chí Đặc trưng của DNCNNQD Đặc trưng của DNCNQD
1 Sản phẩm Hàng hóa cá nhân là chủ yếu Hàng hóa công cộng là chủ
yếu
2 Đối tượng
phục vụ
- Người tiêu dùng cụ thể
- Thị trường mục tiêu
- Nhiều đối tượng khác nhau
- Ngành, khu vực KT-XH
3 Mục tiêu
hoạt động
- Hiệu quả tài chính
- Lợi nhuận
- Mục tiêu "đơn": kinh doanh
- Phát triển kinh tế-xã hội
- Hiệu quả kinh tế-xã hội
- Hiệu quả tài chính và đóng
góp cho ngân sách
- Mục tiêu "kép" giữa xã hội
và kinh doanh
4 Ra quyết
định
- Trong phạm vi hẹp của
người quản lý
- Ràng buộc bởi luật pháp và
các nguyên tắc quản lý và
triết lý kinh doanh của công
ty
- Nhiều người, nhiều cấp
tham gia quyết định, chỉ đạo
- Ràng buộc bởi luật pháp,
quy chế đối với DNNN và
nguyên tắc, triết lý kinh
doanh
5 Nguồn lực Thị trường yếu tố tự do - Thị trường yếu tố tự do
- Đối tượng chính sách
6 Thanh toán Thanh toán trực tiếp theo giá
cả thỏa thuận
- Đôi khi người sử dụng
không phải trả tiền hoặc trả
dưới mức giá trị thật
- Người trả tiền (CP) đôi khi
lại không phải là người sử
dụng
Như vậy, giữa DNCNQD và DNCNNQD có những đặc trưng rất khác nhau đặc
biệt là về mục tiêu, cách quản lý sản xuất và kinh doanh. DNCNNQD có mục tiêu chính là lợi
nhuận về kinh tế - mục tiêu "đơn", trong khi đó DNCNQD có mục tiêu "kép" vừa phải thực thi
mục tiêu hiệu quả xã hội vừa phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Các căn cứ để các DNCNNQD ra quyết định kinh doanh hoàn toàn dựa vào mục
tiêu kinh doanh và các yếu tố đầu vào theo như hình sau:
Hình 1.1: Đặc điểm về mục tiêu và các yếu tố đầu vào của DNCNNQD
Một khía cạnh khác biệt về thứ tự ưu đãi thanh toán khi phá sản của DNCNNQD
cũng rất rõ nét. Thông thường các DNCNNQD chỉ sẽ ưu tiên trả các khoản vay nợ theo
thứ tự đối với người lao động, Ngân hàng, Quỹ tín dụng, nhà đầu tư, cổ đông. Đặc trưng
này thể hiện sự ưu tiên của các khoản thanh toán đối với người lao động sau đó đến các
chủ nợ và cuối cùng mới đến các chủ đầu tư. Trong khi đó, các DNCNQD sẽ ưu tiên thanh
toán cho người lao động, các cổ đông tư nhân, các khoản vay tư nhân sau đó đến các
khoản vay tài chính Nhà nước và cuối cùng là Ngân sách Nhà nước.
Những đặc trưng cơ bản trên đây đã cho thấy DNCNNQD là DN kinh doanh rất
nhanh nhạy trong cơ chế thị trường. Để quản lý tốt các DN này, đòi hỏi các cấp, các ngành
phải hiểu rõ các đặc trưng này và nắm vũng cơ chế thị trường và các quy luật kinh tế khách
quan để vận dụng.
1.1.3. Các chức năng quản lý nhà nước đối với DNCNNQD
Quản lý nhà nước đối với công nghiệp nói chung bao gồm các chức năng cơ bản
sau:
1.1.3.1. Chức năng định hướng
Giá
QSF
Chi phí cố
định
Chi phí
nguyên vật
liệu
Chi phí lao
động Kỹ
thuật
Quản lý
Lợi
nhuận
Chi phí sản
xuất kinh
doanh
Quản lý nói chung là hoạt động hướng đích của chủ thể quản lý, cho nên quản lý
nhà nước đối với công nghiệp tất yếu có chức năng định hướng. Đối với nước ta, định
hướng phát triển công nghiệp là định hướng XHCN, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng và văn minh. Mục tiêu để quản lý các DNCNNQD cũng sẽ theo định
hướng này. Nhà nước ta thực hiện chức năng này thông qua đường lối phát triển kinh tế xã
hội của Đảng và Nhà nước. Chủ trương này là định hướng quan trọng nhất và xuyên suốt
quá trình quản lý kinh tế nước ta.
1.1.3.2. Chức năng tạo điều kiện, môi trường và điều tiết
Chức năng định hướng mới chỉ đưa ra các mục tiêu cuối cùng và phác họa hướng
phát triển theo mục tiêu đó. Do đó, quản lý nhà nước đối với công nghiệp còn có chức
năng tạo ra điều kiện, môi trường cho công nghiệp phát triển. Đồng thời, trong quá trình
phát triển phải có những điều chỉnh đúng hướng và đúng tốc độ nhằm phát triển nền kinh
tế. Quản lý nhà nước về kinh tế cũng cần phải thực hiện cả chức năng điều tiết. Chức năng
này được thể hiện thông qua các chính sách và biện pháp cụ thể của Nhà nước trong từng
thời kỳ. Chính phủ sử dụng rất nhiều công cụ quản lý, đặc biệt là công cụ thuế để điều tiết
và tạo môi trường thuận lợi cho DNCN. Khi Nhà nước thừa nhận vai trò của kinh tế ngoài
quốc doanh thì tất yếu sẽ tạo điều kiện môi trường cho các DNCNNQD phát triển, tuy
nhiên Nhà nước nước sẽ điều tiết các doanh nghiệp này nhằm phát triển theo đúng định
hướng đã đề ra.
1.1.3.3. Chức năng điều hòa phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực và giữa các
doanh nghiệp
Trong ngành công nghiệp luôn có các mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực và
giữa các DN. Đôi khi các mối quan hệ này nổi lên như là những tác động mang tính khách
quan, do đó Nhà nước phải đặc biệt chú trọng đến việc điều hòa phối hợp giữa các ngành,
các lĩnh vực và giữa các DN. Mối quan hệ này thường xuất phát từ mối quan hệ tương
quan của các ngành, các lĩnh vực và các DN biểu hiện thông qua cơ cấu ngành, lĩnh vực và
loại hình DN. Nhà nước không thực hiện được chức năng này tất yếu sẽ chịu nhiều phản
ứng mang tính khách quan do các đối tượng bị quản lý này tác động trở lại.
1.1.3.4. Chức năng kiểm tra kiểm soát
Việc quản lý nhà nước đối với công nghiệp đòi hỏi phải có đầy đủ các thông tin
hai chiều cả từ phía chủ thể và từ phía khách thể bị quản lý. Để đảm bảo cho quá trình
quản lý có hiệu quả và đảm bảo định hướng phát triển luôn luôn được thực thi, Nhà nước
cần phải có chức năng kiểm tra giám sát đối với lĩnh vực sản xuất - kinh doanh công
nghiệp.
Hệ thống chức năng trên có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, đòi hỏi phải được
thực hiện đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước đối với công
nghiệp, đặc biệt là DNCNNQD.
1.2. Sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp
ngoài quốc doanh
1.2.1. Hệ thống biện pháp và công cụ quản lý
Quản lý nhà nước đối với công nghiệp, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các biện
pháp sau: Biện pháp hành chính - pháp luật, biện pháp kinh tế và biện pháp tổ chức - giáo
dục. Nhà nước ta đã tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước bằng cách giảm dần các
biện pháp hành chính và tăng cường biện pháp lý thông qua luật. Bên cạnh đó, Nhà nước
cũng đang tăng cường các biện pháp quản lý kinh tế và biện pháp giáo dục. Mặc dù, các
biện pháp này hỗ trợ đắc lực cho nhau trong một chỉnh thể xã hội nhưng mức độ và cường
độ sử dụng các biện pháp này còn tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế khác
nhau. Khi phát triển nền kinh tế thị trường, biện pháp quản lý bằng luật pháp được đặc biệt
quan tâm nhằm xây dựng một Nhà nước Pháp quyền. Những biện pháp hành chính sẽ
không còn là cơ bản đối với cơ chế quản lý mới. Nhiều luật sư và nhà kinh tế cho rằng luật
pháp là công cụ trong quản lý nhà nước chứ không phải là biện pháp. Trên thực tế có thể
nhận định rằng luật pháp là biện pháp quản lý, công cụ quản lý là công cụ thuế, công cụ
tiền tệ v.v... Dù ở lĩnh vực nào, sử dụng công cụ gì cũng cần phải luật pháp hóa hay nói
cách khác, các biện pháp quản lý được thể hiện chủ yếu thông qua việc sử dụng các công
cụ đòn bẩy giá cả, tiền tệ tín dụng, tiền lương, đòn bẩy kinh tế khác và đặc biệt là công cụ
thuế.
Trong quản lý nhà nước đối với công nghiệp, thuế là công cụ tài chính rất quan
trọng. Thuế tác động rất mạnh mẽ đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tác động đến định hướng
hoạt động và mở rộng quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp. Xét ở góc độ rộng hơn,
thuế là khoản tiền mà người nộp thuế phải trả cho các hàng hóa công cộng. Nhiều nhà kinh
tế còn gọi thuế là giá của các hàng hóa công cộng. Nhà nước thu thuế cũng nhằm chi tiêu
cho các mục đích kinh tế-xã hội. Mỗi DN và cá nhân đóng góp thuế cũng có phần hưởng
lợi từ các hoạt động đó của Nhà nước. Thuế còn có chức năng phân phối các nguồn lực,
khuyến khích sử dụng hợp lý các yếu tố đầu vào. Ngoài ra, một phần thuế được thu vào ngân
sách lại được đầu tư ngược trở lại cho công nghiệp, nên thuế có đặc trưng rất đặc biệt trong
quản lý nhà nước đối với công nghiệp. Thuế cũng có chức năng bảo đảm sự công bằng
trong ngành công nghiệp. Đây là công cụ rất nhạy bén và đặc biệt quan trọng trong quản lý
nhà nước đối với DNCNNQD.
Tuy đã thống nhất về vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc can thiệp và
điều tiết các hoạt động của hệ thống kinh tế thị trường, nhưng các quan điểm lý thuyết kinh
tế