Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nứơc trong đó có đổi mới về cơ
chế quản lý kinh tế, những năm qua ngành ngân hàng đã thực hiện được chiến lược đổi
mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt động của mình. Về mô hình tổ
chức từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, hệ thống
các ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng tăng cường huy
động, khai thác mọi nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới
công tác thanh toán và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Do đó, đã góp phần quan
trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm phát được
kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định.
Với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam đã đem lại những thành tựu ban đầu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực
kinh tế. Nền kinh tế nước ta dần dần đẩy lùi lạm phát, sản xuất được mở rộng thu nhập
của dân cư được nâng cao và bước đầu có tích luỹ cho tái đầu tư. Những thành tựu đó
có đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính
cung cấp vốn cho các ngành kinh tế, thúc đẩy và tăng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh
tế.
Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT (NHNo & PTNT
nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền kinh tế nói chung
và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp phần quan trọng trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi khu vực nông thôn.
Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân ngày
càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết quả đó có sự đóng
góp to lớn của NHNo & PTNT với phương châm "đi vay để cho vay", Ngân hàng Nông
nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
nhiều thành phần khu vực nông nghiệp - nông thôn.
Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách hàng, đưa
vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá
trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực dồi dào cung cấp lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu
thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, tạo công văn việc làm, tận dụng mọi nguồn lực
lao động trong nông thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội nhất là trong khu vực
nông thôn hiện nay.
Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy rõ sự cần
thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh tế quốc doanh và tập
thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản xuất. Đây là sự chuyển hướng phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và
phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn. Thị trường tín dụng nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói - giảm nghèo.
Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc và trở ngại. Vì vậy, việc
nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và cách tháo gỡ là rất cần thiết.
Qua thời gian học tập tại trường ĐHTCKT Hà Nội và quá trình thực tập nghiên
cứu, khảo sát thực tế tại Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà
Giang. Em chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay
hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang -”
làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương.
Chương I: Hộ sản xuất và vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển
của hộ sản xuất.
Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang.
75 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1759 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản
xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh Hà giang
Lời nói đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nứơc trong đó có đổi mới về cơ
chế quản lý kinh tế, những năm qua ngành ngân hàng đã thực hiện được chiến lược đổi
mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt động của mình. Về mô hình tổ
chức từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, hệ thống
các ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng tăng cường huy
động, khai thác mọi nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới
công tác thanh toán và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Do đó, đã góp phần quan
trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm phát được
kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định.
Với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam đã đem lại những thành tựu ban đầu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực
kinh tế. Nền kinh tế nước ta dần dần đẩy lùi lạm phát, sản xuất được mở rộng thu nhập
của dân cư được nâng cao và bước đầu có tích luỹ cho tái đầu tư. Những thành tựu đó
có đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính
cung cấp vốn cho các ngành kinh tế, thúc đẩy và tăng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh
tế.
Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT (NHNo & PTNT
nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền kinh tế nói chung
và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp phần quan trọng trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi khu vực nông thôn.
Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân ngày
càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết quả đó có sự đóng
góp to lớn của NHNo & PTNT với phương châm "đi vay để cho vay", Ngân hàng Nông
nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
nhiều thành phần khu vực nông nghiệp - nông thôn.
Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách hàng, đưa
vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá
trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực dồi dào cung cấp lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu
thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, tạo công văn việc làm, tận dụng mọi nguồn lực
lao động trong nông thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội nhất là trong khu vực
nông thôn hiện nay.
Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy rõ sự cần
thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh tế quốc doanh và tập
thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản xuất. Đây là sự chuyển hướng phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và
phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn. Thị trường tín dụng nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói - giảm nghèo.
Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc và trở ngại. Vì vậy, việc
nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và cách tháo gỡ là rất cần thiết.
Qua thời gian học tập tại trường ĐHTCKT Hà Nội và quá trình thực tập nghiên
cứu, khảo sát thực tế tại Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà
Giang. Em chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay
hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang -”
làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương.
Chương I: Hộ sản xuất và vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển
của hộ sản xuất.
Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang.
Chương I
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp
đối với sự phát triển của hộ sản xuất
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo lần thứ
V đã đề ra là " Xoá bỏ triệt để quan liêu, bao cấp trong giá, lương, tiền là yêu cầu hết
sức cấp bách, là khâu đột phá có tính chất quyết định để đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị
trường, ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân"
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải triệt để
thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường, để xây dựng và phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vốn ngân
sách Nhà nước tập trung đầu tư cho các mục tiêu lớn của Chính phủ như xây dựng cơ sở
vật chất, chi cho quốc phòng an ninh, văn hoá xã hội... Bản thân các thành phần kinh tế
trong điều kiện cơ chế mới có sự cạnh tranh cần vốn để phát triển mở rộng sản xuất, đổi
mới công nghệ, do đó nhu cầu về vốn là rất lớn, nhất là khi Nhà nước cho phép các
thành phần kinh tế được tự do đầu tư sản xuất trong khuôn khổ pháp luật dưới nhiều
hình thức. Như vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng vốn cho các nhà sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế như thế nào?. điều đó có thể thực hiện được bằng nhiều cách khác
nhau thông qua nhiều nguồn như: vốn tự có của các thành phần kinh tế, vốn ngân sách,
vốn tín dụng, vốn liên doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài... Nhưng trong
đó có thể nói nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng
nhất, vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian, kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng -
tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, thanh toán vốn giưã các
thành phần kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng và có trách nhiệm hoàn trả cho khách
hàng khi họ rút vốn.
Khi nền kinh tế mở cửa các thành phần kinh tế được khuyến khích tự do phát
triển, kinh tế ngoài quốc doanh đã thực sự trỗi dậy phát triển nhộn nhịp, đa dạng và
phong phú. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp thì kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm :
Hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất...
Hiện nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã mở rộng quan hệ Quốc tế
nhiều tổ chức Quốc tế tài trợ vốn, đầu tư vốn cho nông nghiệp, lâm nghiệp nhiều nguồn
vốn được hình thành. Song hiện nay nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp
vẫn là người bạn đồng hành chủ yếu cuả các hộ sản xuất.
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất
1.1.1. Vị trí:
Nước ta là một nước nông nghiệp thuần tuý với trên 80% dân số sống ở khu vực
nông thôn, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm giữ vai trò hết sức quan
trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và phát triển kinh tế của đất
nước. “Chỉ khi nào nông thôn được công nghiệp hoá - hiện đại hoá, khi học vấn, kiến
thức và công nghệ tiên tiến nằm trong tay nông dân, được bà con sử dụng thành thạo và
vững chắc thay cho “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, khi xưởng máy mọc lên ở các
làng mạc, thị trấn, ngành nghề phát triển rộng khắp, một bộ phận đáng kể nông dân trở
thành công nhân công nghiệp, hình thành cục diện mới ở các vùng nông thôn thì lúc đó
mới có thể nói công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hoàn thành cơ bản trên phạm vi cả
nuớc”(1). Chính vì lẽ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn mà chủ nhân là hộ sản xuất có vị
trí vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước.
Hộ sản xuất ra đời là một yêu cầu bức xúc của ngành kinh tế, thể hiện chủ
trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi Chỉ thị 100 khoán 10 ra
đời, kinh tế hộ sản xuất đã hình thành và phát triển đa dạng. Thực chất hộ sản xuất là
đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất cũng như tiêu thụ sản
phẩm mà mình làm ra. Nói cách khác hộ sản xuất là chủ thể trong mọi mối quan hệ sản
xuất kinh doanh.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất.
Hộ sản xuất là bộ phận quan trọng hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc dân, có
mối quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế quốc dân khác và có những đặc điểm riêng
sau:
*Đặc trưng thứ nhất:
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân, các hộ sản xuất ở nông thôn
nước ta đang chuyển dần từ cơ chế khép kín, tự cung tự cấp sang nền kinh tế sản xuất
hàng hoá. Ngày nay các hộ nông dân không đủ làm duy nhất một nghề nông mà đã biết
kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp kinh doanh ngành nghề phụ theo hướng ai có khả
năng gì thì làm nghề đó. Sự chuyển đổi nói trên đã giúp cho các hộ sản xuất ở nông thôn
bớt lệ thuộc vào yếu tố thời tiết, mùa vụ góp phần nâng cao thu nhập cho hộ, đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
* Đặc trưng thứ hai:
Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất ở các vùng, các
khu vực và các tỉnh thành khác nhau có sự chênh lệch đáng kể. Thậm chí đối với các hộ
sản xuất trong cùng một vùng cũng có sự khác biệt về qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật,
trình độ lực lượng lao động, khả năng vốn tự có, sở dĩ có sự khác biệt nói trên một phần
là do mỗi vùng mỗi khu vực có những đặc điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu nhưng
phần lớn là do sự khác biệt về tiềm năng kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó cũng có
một yếu tố khác ảnh hưởng tới quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất đó là
khả năng của chính bản thân các hộ đó.
Do có sự chênh lệch lớn về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các hộ, cùng
với sự tồn tại của một số lượng lớn các hộ sản xuất nhỏ lẻ, tất yếu sẽ dẫn đến quá trình
tích tụ và tập trung về ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật, quá trình tích tụ và tập trung
này sẽ góp phần giảm bớt chất phân tán lạc hậu của nền kinh tế tiểu nông tạo điêù kiện
thuận lợi để phát triển, mở rộng sản xuất kinh tế hộ.
* Đặc trưng thứ ba:
Cùng với sự chuyển hoá nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng sẽ suất hiện thêm nhiều hình thức tổ chức
kinh tế hộ sản xuất khác nhau như hộ nhận khoán, hộ nhận thầu, hộ gia đình là hộ thành
viên của hợp tác xã, nông trường, tập đoàn sản xuất, doanh nghiệp Nhà nước. Sự xuất
hiện các hình thức tổ chức mới đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ sản xuất, tăng
thu nhập của hộ. Tuy nhiên các hình thức tổ chức như thế này cũng chịu mức độ rủi ro
rất lớn vì vậy Nhà nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ thích hợp để kinh tế hộ sản
xuất củng cố và nâng cao vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc trưng kể trên kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố quyết định
sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và trong tương lai, quan tâm phát triển
kinh tế hộ sản xuất, làm cho hộ nghèo giảm bớt, hộ giàu thêm nhiều là vấn đề quan
trọng trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới hiện đại rút ngắn khoảng
cách giữa thành thị và nông thôn. Đây là vấn đề lớn quan trọng.
Hộ sản xuất thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, song phần lớn hiện nay trong tổng số lao động nằm trong
các ngành sản xuất vật chất thì riêng ngành nông nghiệp chiếm hơn 70%. Hộ sản xuất
vừa sản xuất vừa làm nghề phụ kinh doanh để tăng thu nhập cho gia đình nâng cao đời
sống .
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất.
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất.
* Trước Chỉ thị 100.
Sản xuất nông nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình thức tập trung như hợp tác xã,
nông trường quốc doanh... người lao động làm việc theo kiểu ghi công tính điểm, họ
không có quyền gì trong vấn đề lựa chọn kế hoạch sản xuất, ăn chia, phân phối hay sở
hữu tư liệu sản xuất. Lúc này khái niệm hộ sản xuất chưa có, hiệu quả sản xuất kém.
* Sau Chỉ thị 100 và khoán 10.
Khi chủ trương của Nhà nước được đưa ra thực hiện việc giao khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm người lao động thì hình thức hộ sản xuất nhận khoán ra đời. Họ là
người nhận ruộng khoán và tự mình mua sắm vật tư sản xuất, tiến hành đầu tư thâm
canh trên ruộng của mình và chỉ phải nộp sản phẩm theo quy định cho tập thể. Nhất là
khi có quyết 652 của Nhà nước thực hiện giao ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình thì kinh
tế sản xuất đã được thực sự phát triển theo hướng đa năng trong tất cả các ngành nông -
lâm - ngư - diêm nghiệp... Cùng trong bối cảnh đó, do biết sắp xếp bố trí lao động phù
hợp mà các hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ thương nghiệp dịch vụ đã hình thành, củng cố
ngày càng phát triển.
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Trước đây kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển một cách ỳ ạch, hiệu quả
thấp, vì vậy việc bố trí lao động chưa hợp lý, cách tổ chức sản xuất và phân phối sản
phẩm chưa khích lệ được người lao động. Nhưng từ khi hộ sản xuất ra đời, kinh tế hộ
sản xuất phát triển rộng rãi thì việc tận dụng lao động về mặt số lượng, cường độ đã
được sử dụng hợp lý.
Chính vì vậy, hộ sản xuất đã tự chủ trong tất cả các khâu công việc: Từ việc mua
sắm vật tư thiết bị sản xuất đến việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với
đặc điểm của từng vùng đất, từng địa phương, từng thời kỳ nhằm thu được hiệu quả cao
và tăng cường được khối lượng hàng hoá cho xuất khẩu Việt Nam từ một nước nghèo,
đói ăn đã trở thành nước thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Đó là do có sự đóng góp
to lớn của kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp nông thôn.
Không những thế, việc khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng, khai thác mặt
nước trồng thuỷ - hải sản... đã được thực hiện tốt, tạo ra sự phong phú về sản phẩm, đa
dạng về chủng loại. Những làng nghề mọc lên cùng với truyền thống, kinh nghiệm lâu
đời của cha ông đã góp phần làm cho bộ mặt kinh tế nông nghiệp nông thôn được đổi
mới toàn diện.
* Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải
quyết công ăn việc làm ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ là một trong những
điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong quá trình và hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp đặc biệt là
trong ngành nông nghiệp, nông thôn do cấu tạo hữu cơ thấp qui mô sản xuất nhỏ. Kết
quả nghiên cứu ở nước ta trong những năm qua cho thấy vốn đầu tư ban đầu cho một hộ
gia đình là 1,3 triệu đồng cho một lao động, xí nghiệp tư nhân là 3 triệu đồng cho một
lao động, xí nghiệp quốc doanh là 12 triệu đồng trên một lao động ( chỉ là vốn cố định,
chưa kể vốn lưu động). Như vậy chi phí cho một lao động trong hộ sản xuất thấp.
Trong điều kiện hiện nay, nước ta còn nghèo, vốn tích luỹ trong nước còn ít thì
với đặc điểm kể trên kinh tế hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp, nâng
cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói chung và nông thôn nói riêng.
* Kinh tế hộ sản xuất nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên,
công cụ lao động.
Việc giao quyền sử dụng, quản lý lâu dài đất đai, tài nguyên cho hộ sản xuất đã
tạo ra động lực mới thúc đẩy các hộ chăm lo sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên của các hộ sản xuất được gắn liền với hiệu quả sử dụng tài nguyên nên các hộ
đã có những biện pháp thích hợp làm tăng độ màu mỡ của đất, kết hợp việc khai thác
với duy trì, bảo vệ tài nguyên. Hộ sản xuất với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ sẽ phải tự
chịu trách nhiệm và đã toàn quyền sử dụng đối với các công cụ sản xuất của mình, do
đó họ sẽ tìm mọi cách thức, biện pháp để sử dụng chúng có hiệu quả nhất, kết hợp với
việc bảo quản tốt để có thể sử dụng lâu dài.
* Khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá của nền
kinh tế hộ.
Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, các đơn vị kinh tế tự chủ nói chung,
các hộ sản xuất nói riêng có quyền quyết định mục tiêu, quy trình công nghệ sản xuất
kinh doanh, trực tiếp quan hệ với thị trường, tự hạch toán lỗ lãi để muốn tồn tại và phát
triển được trong cơ chế thị trường thì các doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng sản
xuất. Thường xuyên nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với như cầu
của thị trường, phải kết hợp với việc hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán để khích thích
nhu cầu người tiêu dùng. Một trong những ưu điểm lớn nhất của kinh tế hộ sản xuất là
có được bộ máy gọn nhẹ, năng động do đó sẽ dễ dàng nắm bắt được thay đổi của thị
trường để kịp thời nghiên cứu, điều chỉnh, triển khai phương thức sản xuất mới. Bên
cạnh đó bộ máy tổ chức, quản lý gọn nhẹ còn góp phần làm giảm chi phí quản lý, từ đó
giá thành sản phẩm hạ làm tăng thêm khả năng cạnh trạnh của sản phẩm trên thị trường.
Tóm lại hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế năng động, hiệu quả, có khả
năng thích ứng với cơ chế thị trường.
* Thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá và do đó tạo khả
năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Một trong những đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ sản xuất đó là sự chênh lệch về
quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các hộ sản xuất, sự chênh lệch này dẫn đến tình
trạng các hộ thuộc loại có thu nhập thấp thường không có khả năng tổ chức kinh doanh
nhiều loaị hàng hoá hay trồng trọt, chăn nuôi nhiều loại cùng một lúc do đó giữa các hộ
sản xuất thường có sự phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề gì, có điều kiện tự
nhiên, kỹ thuật vốn để sản xuất mặt hàng nào thì làm nghề đó. Các ngành nông lâm,
ngư, diêm nghiệp thông thường các hộ sản xuất này thường chỉ chuyên môn hoá vào
việc trồng trọt một loại cây, hay chăn nuôi một loại gia súc nào đó, vì như vậy họ sẽ có
điều kiện tập trung vốn, kỹ thuật để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, trong công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hộ sản xuất thường tập trung vào một loại hàng hoá.
Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ đặc biệt là ở nông thôn thì sự chuyên môn hoá cũng
được thể hiện rõ một số ở nông thôn đã tập trung đầu tư để kinh doanh các dịch vụ như
tuốt lúa, xay xát thuê, bơm nước thuê...
Để quá trình chuyên môn hoá đạt kết quả cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ xuất hiện
đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau chuyên môn hoá sẽ làm cho
năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn, trong khi đó hợp tác hoá sẽ
làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn thiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản
thân các hộ sản xuất và thị trường.
Tóm lại : Hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá từ đó tạo ra khả
năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất:
+ Xu hướng phát triển không đều giữa các hộ sản xuất:
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại được thì các doanh nghiệp phải không
ngừng mở rộng sản xuất, tuy nhiên không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có khả
năng vốn, kỹ thuật để mở rộng phát triển sản xuất. Kinh tế hộ sản xuất cũng chịu ảnh
hưởng lớn của quy luật nói trên trong nền kinh tế thi trường, hộ nào có trình độ quản lý,
có vốn, có sức lao động, có điều kiện kỹ thuật thì sẽ có khả năng phát triển ngành nghề
của mình theo ý muốn ngược lại những hộ nào không có đủ điều kiện ở trên thì họ sẽ bị
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chủ động tiến hành sản xuất được, do vậy họ đã
nghèo lại