Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Trình
độ dân trí và tiềm lực khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và
vị thế của mỗi quốc gia. Trên thế giới giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định
sự thành bại của mỗi Quốc gia. Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 4 thông qua ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan
trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước”, và nhấn mạnh “tăng cường các
nguồn lực cho giáo dục - đào tạo”, “tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào
tạo”.
Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2020 cũng ghi rõ: "...
Xây dựng một nền giáo dục - đào tạo chất lượng cao đạt chuẩn khu vực và Quốc tế”.
Đại Học Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định 32/CP ngày 04/04/1994 của
Chính phủ và Quyết định 477/TTg ngày 5/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ; được điều
chỉnh theo Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ và Quyết định
số 16/001/QĐ-TTg ngày 12/02/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của Đại học Đà
Nẵng đánh dấu bước đổi mới quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển nền
giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung, ở Đà Nẵng nói riêng trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của các nước tiên
tiến trên thế giới, xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học
chất lượng cao của khu vực và cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại đó, Đại Học
Đà Nẵng phải phát huy tiềm năng của mình, trên cơ sở sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước,
trong đó hoàn thiện quản lý tài chính là bộ phận quan trọng. Với những điều kiện mới,
nhiệm vụ mới, Đại học Đà Nẵng cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính để phối
hợp cùng với các mảng công tác về đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm góp phần nâng
cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng. Vì vậy, đề tài: “Quản lý tài chính ở
Đại học Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” được chọn làm đối tượng
nghiên cứu trong luận văn này.
98 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Trình
độ dân trí và tiềm lực khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và
vị thế của mỗi quốc gia. Trên thế giới giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định
sự thành bại của mỗi Quốc gia. Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 4 thông qua ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan
trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước”, và nhấn mạnh “tăng cường các
nguồn lực cho giáo dục - đào tạo”, “tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào
tạo”.
Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2020 cũng ghi rõ: "...
Xây dựng một nền giáo dục - đào tạo chất lượng cao đạt chuẩn khu vực và Quốc tế”.
Đại Học Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định 32/CP ngày 04/04/1994 của
Chính phủ và Quyết định 477/TTg ngày 5/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ; được điều
chỉnh theo Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ và Quyết định
số 16/001/QĐ-TTg ngày 12/02/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của Đại học Đà
Nẵng đánh dấu bước đổi mới quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển nền
giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung, ở Đà Nẵng nói riêng trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của các nước tiên
tiến trên thế giới, xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học
chất lượng cao của khu vực và cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại đó, Đại Học
Đà Nẵng phải phát huy tiềm năng của mình, trên cơ sở sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước,
trong đó hoàn thiện quản lý tài chính là bộ phận quan trọng. Với những điều kiện mới,
nhiệm vụ mới, Đại học Đà Nẵng cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính để phối
hợp cùng với các mảng công tác về đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm góp phần nâng
cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng. Vì vậy, đề tài: “Quản lý tài chính ở
Đại học Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” được chọn làm đối tượng
nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan
đến lĩnh vực quản lý tài chính trong các trường đại học, trên cả nước nói chung và khu
vực miền Trung nói riêng. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Ngân hàng Thế giới, nghiên cứu tài chính cho giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
(1996)
- Nguyễn Duy Bắc (2002), “Phát triển giáo dục và đào tạo theo tinh thần xã hội
hoá”, Tạp chí lý luận Chính trị.
- Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Đoan (1999), Phát triển nguồn nhân lực cho giáo
dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Công Nghiệp (1996), Xây dựng quy trình lập kế hoạch và cơ chế điều
hành ngân sách giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính.
- Trần Thị Thu Hà (1993), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ
thống giáo dục Quốc dân, Luận án Phó tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội.
- Trần Xuân Hải (2000), Giải pháp vốn đầu tư phát triển sự nghiệp đào tạo trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
- Lê Phước Minh (2001), “Vấn đề thu chi trong giáo dục Đại học và một số ý kiến
về tạo nguồn”, Tạp chí Giáo dục, (7).
- Trần Văn Phong (2001), Nguồn tài chính và quản lý tài chính ở các trường Đại
học công lập trong giai đoạn hiện nay, Luận án Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Ngọc (2001), Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học
quốc gia Hà Nội-Thực trạng và giải pháp, Luận án Thạc sĩ Kinh tế,Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Duy Tạo (2000), Hoàn thiện quản lý tài chính các trường đào tạo công
lập ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.
Các công trình trên tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và đã đề cập đến nhiều
khía cạnh về đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, nguồn tài chính và quản lý tài chính ở
các trường đào tạo công lập. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
chuyên biệt về vấn đề quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là thông qua phân tích thực trạng quản lý tài chính ở Đại
học Đà Nẵng, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
Phù hợp với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo,
nhân tố tác động tới việc quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo, kinh nghiệm của một số
nước trong việc quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của Đại Học Đà Nẵng thời gian qua và nêu
ra những tồn tại cần khắc phục, những điểm mạnh cần phát huy.
- Luận chứng giải pháp nâng cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng
trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng (đơn vị
sự nghiệp có thu), các yếu tố quyết định năng lực quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng bao
gồm yếu tố con người, quy chế quản lý và thiết bị hỗ trợ...
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn:
- Về nội dung: Chủ yếu giới hạn ở các nội dung quản lý tài chính của Đại học Đà
Nẵng.
- Về không gian: Đối tượng khảo sát của luận văn là Đại học Đà Nẵng bao gồm 5
trường thành viên.
- Về thời gian: Từ năm 2000 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, bám sát điều kiện thực tế ở địa phương. Trong từng nội dung cụ thể,
còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát tài liệu sẵn có kết hợp phương
pháp nghiên cứu thực tiễn: (mẫu phiếu điều tra, phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia tổng
kết kinh nghiệm), qua đó xử lý số liệu: (dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu,
các kết quả điều tra khảo sát) để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tài chính trong đào tạo đại
học.
- Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề quản lý tài chính trong đào tạo đại
học.
- Nêu ra bức tranh khái quát về quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng
- Đề xuất những giải pháp quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
chia làm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
một số vấn đề chung về quản lý tài chính
ở trường đại học công lập
1.1. Quản lý tài chính ở trường Đại học công lập
1.1.1. Khái niệm tài chính, nguồn tài chính và quản lý tài chính ở trường Đại
học công lập
1.1.1.1. Khái niệm tài chính
Tài chính không những tượng trưng cho các quan hệ - mặt bản chất bên trong mà
còn tượng trưng cho các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ - Mặt biểu hiện bên ngoài “vỏ
vật chất” của các quan hệ đó. Tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân
phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị (gọi tắt là các quan hệ phân phối). Là một bộ
phận của các quan hệ phân phối của xã hội.
Bản chất của tài chính - các quan hệ phân phối sản phẩm xã hội - chịu sự ràng
buộc bởi bản chất của quan hệ sản xuất xã hội mà đặc trưng cơ bản là các quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất.Có nhiều khái niệm về tài chính,nhưng khái niệm về tài chính dưới
đây cho phép chúng ta nhìn nhận đầy đủ,toàn diện về tài chính:
Khái niệm tài chính: Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra
ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh
trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền
tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Việc xác định đúng đắn quan niệm tài chính và bản chất tài chính có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó tạo cơ sở cho việc vận dụng các quan hệ tài
chính tồn tại khách quan để quyết định chính xác các quyết định tài chính, đồng thời
thông qua các chính sách tài chính để tổ chức các quan hệ tài chính nhằm sử dụng tài
chính tác động tích cực tới các hoạt động và các hoạt động kinh tế - xã hội theo các
phương hướng đã xác định.
1.1.1.2. Khái niệm nguồn tài chính
Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác,
sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng
tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất. Sự vận động của các nguồn tài chính phản ánh
sự vận động của những bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị (tiền tệ). Nguồn tài
chính luôn thể hiện một khả năng về sức mua nhất định. Trong nền kinh tế thị trường,
mỗi chủ thể trong xã hội khi đã nắm trong tay những nguồn tài chính nhất định là nắm
trong tay một sức mua để có thể nắm được những nguồn vật lực hay sử dụng được những
nguồn nhân lực nhất định phục vụ cho mục đích tích lũy hay tiêu dùng của mình.
Nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo nói chung và đào tạo ở các trường
đại học công lập nói riêng là đầu tư cơ bản, đầu tư cho sự nghiệp phát triển của con người
- là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhà kinh tế học Hoa Kỳ Gray
Backer đã khẳng định “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào
nguồn nhân lực”.
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư “lợi ích tương lai”, hiệu quả không thấy ngay được,
lợi ích của việc đầu tư cho sự nghiệp đào tạo có tác dụng như đầu tư cho phương tiện sản
xuất, một loại phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm có tính chất vô hình, sản phẩm đó
không thuộc loại tiêu dùng mà thuộc loại “tạo tiềm năng”. Hiệu quả của việc đầu tư cho
sự nghiệp đào tạo được phát huy trên phạm vi toàn xã hội, đồng thời được xác định đầy
đủ khi những sản phẩm của đào tạo đi vào cuộc sống và thực sự thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Có thể thấy quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo (được
minh hoạ theo Sơ đồ 1.1).
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo
1.1.1.3. Khái niệm quản lý tài chính
Quản lý tài chính trước hết là quản lý các nguồn tài chính, quản lý các quỹ tiền
tệ, quản lý việc phân phối các nguồn tài chính, quản lý việc tạo lập, phân bổ và sử dụng
các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ, hợp lý và có hiệu quả theo các mục đích đã định.
Đồng thời quản lý tài chính cũng chính là thông qua các hoạt động kể trên để tác động
có hiệu quả nhất tới việc xử lý các mối quan hệ kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình
phân phối các nguồn tài chính, trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các
chủ thể trong xã hội.
Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng để Nhà nước điều hành
và quản lý nền kinh tế đất nước, hình thành và đảm bảo các cân đối chủ yếu và tỷ lệ phát
triển của nền kinh tế quốc dân.
Quản lý tài chính thực chất là sử dụng và phát huy vai trò của hệ thống tài chính
thông qua Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua cơ chế hoạt động và vận động của
tài chính phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của
Nhà nước.
Quản lý tài chính trong trường đại học: Quản lý tài chính trong trường đại học là
quản lý việc thu-chi một cách có kế hoạch, tuân thủ các chế độ tài chính, đã quy định và
tạo ra được hiệu quả chất lượng giáo dục.
1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu quản lý tài chính ở trường đại học công lập
Đầu tư cho sự nghiệp Đào
tạo
Phát triển đào tạo
Đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài
Tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ xã hội
1.1.2.1. Đặc điểm
Quản lý tài chính ở trường đại học công lập là quản lý hệ thống các nguyên tắc,
các quy định, quy chế, chế độ của Nhà nước về tài chính, nguồn hình thành tài chính…
mà hình thức biểu hiện là những văn bản pháp luật, pháp lệnh nghị định…Ngoài ra nó
còn được thể hiện thông qua các quy chế, quy định của trường đại học đối với các hoạt
động tài chính của trường đại học công lập.
1.1.2.2. Yêu cầu
Các quy định về quản lý tài chính ở trường đại học công lập phải tuân thủ theo các
văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan tới các hoạt động tài chính của trường, vì
tài chính trong trường đại học công lập là sự vận động của đồng tiền để thực hiện mục
tiêu phát triển, mục tiêu đào tạo và bản chất của việc đầu tư cho giáo dục đào tạo nói
chung và giáo dục đào tạo đại học nói riêng là đầu tư cho phát triển, cho sự hoàn thiện
nhân cách con người. Quản lý tài chính trong trường đại học công lập phải đáp ứng được
các yêu cầu sau:
- Nắm vững được các chế độ, chính sách hiện hành
- Xác định được các khoản thu
- Xác định các nguồn thu
- Thanh quyết toán, báo cáo tài chính
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nghiệp vụ về tài chính
1.1.3. Vai trò của quản lý tài chính đối với sự phát triển của các trường đại
học công lập
Trong điều kiện cơ chế thị trường, các trường đại học công lập có quyền tự chủ (tự
trị) nhất định về huy động nguồn tài chính và quản lý các nguồn tài chính đó. Tài chính
phục vụ cho giáo dục đào tạo ở các trường đại học công lập hiệu quả chủ yếu từ hai
nguồn: Ngân sách Nhà nước (NSNN) cấp và nguồn ngoài NSNN, trong đó nguồn NSNN
có vai trò quan trọng nhất (minh hoạ trên Sơ đồ 1.2).
Sơ đồ 1.2: Nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo
Nguồn tài chính cho giáo dục -
đào tạo
Nguồn NSNN Nguồn ngoài NSNN
Ngân sách nhà nước: (Điều 1 - Luật ngân sách): là toàn bộ các khoản thu-chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, NSNN không còn là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, nhưng trong tất cả các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo thì nguồn
NSNN vẫn giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất.
NSNN với tư cách là một loại quỹ tiền tệ của Nhà nước có vị trí cực kỳ quan
trọng, phân phối các nguồn tài chính, thể hiện mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội.
Quyền lực về NSNN thuộc về Nhà nước, mọi khoản thu-chi tài chính của Nhà
nước đều do Nhà nước quyết định nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước. Bản chất của
NSNN là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội,
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm thực
hiện các chức năng quản lý và điều hành kinh tế, xã hội của mình, trong đó có các khoản
chi cho bộ máy quản lý của Nhà nước, cho giáo dục - đào tạo, y tế…
Tất cả các khoản chi tiêu tài chính của Nhà nước đều được đảm bảo từ thuế và các
hình thức thu khác vào ngân sách.
Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đơn thuần là quỹ tiền tệ tập trung
để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, mà thực sự trở thành công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Có thể nói đầu tư từ NSNN là yếu tố
quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển sự nghiệp đào tạo, biểu hiện:
Thứ nhất: Chi phát triển văn hoá - xã hội trong đó có sự nghiệp giáo dục - đào tạo
là những nội dung cơ bản nhất của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Đảng và Nhà nước
ta coi trọng giáo dục - đào tạo là “Quốc sách hàng đầu”, tại điều 89 Luật Giáo dục nêu rõ:
Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỷ lệ ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Hiện
nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp đào tạo. Do
hệ thống trường công còn chiếm tỷ lệ lớn, phát triển các trường bán công, dân lập chưa
nhiều, việc xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đa dạng hoá các loại hình trường, lớp
chưa phổ biến, chưa có khả năng thu hút nguồn đầu tư khác cho sự nghiệp đào tạo. Song
NSNN duy trì và phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo theo định hướng của Đảng và Nhà
nước là chiến lược chung của Quốc gia.
Đặc biệt chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo được ưu tiên hàng đầu, khoản
chi này tương đối ổn định và chiếm tỷ trọng trong NSNN, gồm
4 nhóm:
Nhóm 1: Chi cho con người: lương, phụ cấp lương, phúc lợi, BHXH, khoản chi
này theo kế hoạch chiếm khoảng 38 - 43% song vẫn chưa đảm bảo cuộc sống cho cán bộ
công nhân viên, vì vậy việc đầu tư cho giáo dục là phải có các chính sách ưu đãi đối với
giáo viên là cần thiết.
Nhóm 2: Chi quản lý hành chính bao gồm: công tác phí, công vụ phí (điện, nước,
xăng xe, hội thảo, hội nghị…) khoản chi này thường chiếm khoảng 22%/Tổng chi thường
xuyên.
Nhóm 3: Chi giảng dạy, học tập: Bao gồm việc mua tài liệu, sách giáo khoa, giáo
trình, đồ dùng học tập, vật liệu, hoá chất thí nghiệm, phấn viết…Đây là khoản chi có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, chiếm khoảng 13 -14% / Tổng chi ngân sách.
Nhóm 4: Chi mua sắm, sửa chữa: bao gồm chi cải tạo, sửa chữa, nâng cấp trường
lớp, bàn ghế, trang thiết bị, cơ sở vật chất… phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.
Khoản chi này chiếm khoảng 20 -21% / Tổng chi ngân sách.
ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp
đào tạo cũng có sự khác nhau.
Thứ hai: đầu tư NSNN cho xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập,
nghiên cứu khoa học từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và cũng là cơ sở để khuyến khích
thu hút đầu tư từ các khâu, đơn vị, doanh nghiệp… Thực hiện “Nhà nước và nhân dân cùng
chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo”.
Thứ ba: NSNN từng bước đảm bảo ổn định đời sống đội ngũ cán bộ giảng dạy,
phục vụ giảng dạy thông qua thang, bậc lương, ngoài ra còn hưởng phụ cấp ưu đãi trong
ngành giáo dục, với mức 30% cho cán bộ trực tiếp giảng dạy, 50% đối với giáo viên ở
các trường sư phạm.
Thứ tư: NSNN đảm bảo học bổng cho học sinh, sinh viên, ưu tiên đối với diện
chính sách, đảm bảo kinh phí cho đào tạo cán bộ giảng dạy và quản lý.
Thứ năm: NSNN có vai trò điều phối cơ cấu của mỗi trường cũng như toàn bộ hệ
thống thông qua định mức chi ngân sách hàng năm giúp cho việc định hướng, sắp xếp cơ
cấu mạng lưới các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, phát huy tiềm lực đội ngũ
cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất trong việc tạo chất lượng cao và hiệu quả, phân biệt
ngành nghề đào tạo theo khối lượng (y tế, tài chính, kinh tế, tổng hợp…) và tập trung
ngân sách cho mục tiêu chương trình quốc gia như: xây dựng trung tâm đào tạo chất
lượng cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh.
1.1.3.2. Vai trò, vị trí của nguồn ngoài ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp
đào tạo
Nguồn thu ngoài ngân sách: bao gồm sự đóng góp của các tổ chức kinh tế – xã
hội, vốn của nhà trường do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất tạo ra,
vốn do nguồn tài trợ của nước ngoài, vốn do sự đóng góp của các tổ chức cá nhân…
Nguồn ngoài NSNN có vai trò và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo:
Thứ nhất: Tăng đầu tư, nâng cấp cơ sở đào tạo, cải thiện đời sống cán bộ giảng
dạy, sinh viên… nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Thứ hai: Khai thác tiềm năng của các thành phần, tổ chức kinh tế đóng góp kinh
phí cho sự nghiệp đào tạo khi NSNN còn hạn hẹp.
Thứ ba: Phát huy tính năng động trong việc huy động các nguồn tài chính đầu tư
cho sự nghiệp đào tạo.
1.2. Nội dung quản lý tài chính trong các trường đại học công lập
Quy trình quản lý tài chính trong các trường đại học công lập phục vụ giáo dục,
đào tạo gồm 4 bước:
Lập kế hoạch: Dựa vào quy mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo của Nhà nước, nắm