Nguồn nhân lực là một trong hai nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất của cải vật
chất của mọi xã hội, nếu nguồn nhân lực được quan tâm phát triển đúng mức sẽ là nguồn
tài nguyên vô giá, song nếu nguồn nhân lực đó không được sử dụng tốt, việc làm không
được giải quyết, nạn thất nghiệp gia tăng, trở thành một gánh nặng, một sức ép về kinh tế,
nảy sinh tiêu cực xã hội, thậm chí gây chấn động đất nước.
Chính vì vậy mà các nhà kinh tế tư sản điển hình như John Maynard Keynes, đưa
ra "lý thuyết về việc làm" và coi việc làm là một vấn đề trung tâm của xã hội tư sản hiện
đại.
Ngày nay, việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội có tính chất toàn
cầu, là mối quan tâm của mọi quốc gia, liên quan đến đời sống hàng tỷ người trên hành
tinh chúng ta. Theo sự đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới đang diễn ra
cuộc khủng hoảng toàn cầu về việc làm (Global Employment Crisis) [13,22], kể cả ở các
nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, ở nông thôn cũng như thành thị, trong
khu vực Nhà nước cũng như khu vực tư nhân. Tình hình việc làm ở nước ta cũng gay gắt,
trở thành vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ
trương đúng đắn, biện pháp hiệu quả để giải quyết việc làm cho người lao động trong tình
hình mới.
Hơn 10 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính sách kinh tế phù
hợp, nhờ đó đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã đạt những thành
tựu bước đầu rất quan trọng, trở thành một nước có nền kinh tế năng động và phát triển
tương đối nhanh trong khu vực.
Song, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, những vấn đề xã hội cũng nổi lên gay
gắt do hậu quả của chiến tranh và chế độ thực dân mới, do mặt trái của kinh tế thị trường
gây ra như nạn thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội... Trong các vấn đề ấy thì
vấn đề lao động, việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp là một trong những vấn đề vừa có
tính cấp bách trước mắt, vừa có tính cơ bản lâu dài ở nước ta.
Giải quyết việc làm cần được hiểu theo nội dung mới là không chỉ đơn thuần trong
phạm vi chính sách xã hội và cũng không chỉ đơn thuần là thanh toán nạn thất nghiệp. Giải
quyết việc làm bao gồm cả một hệ thống vấn đề: tạo điều kiện cho công dân được giáo dục
đào tạo và chuẩn bị tốt hơn để bước vào lập thân, lập nghiệp, được hưởng quyền lợi làm
việc, tự do lao động, sáng tạo và hưởng thụ thành quả chính đáng, được bảo vệ về quyền
sở hữu trí tuệ và vật chất do mình làm ra theo đúng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống, mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và cống hiến cho cộng đồng.
91 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2441 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - Xã hội ở Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải quyết việc làm trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang
PHầN Mở ĐầU
1. Tính cấp bách của đề tài
Nguồn nhân lực là một trong hai nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất của cải vật
chất của mọi xã hội, nếu nguồn nhân lực được quan tâm phát triển đúng mức sẽ là nguồn
tài nguyên vô giá, song nếu nguồn nhân lực đó không được sử dụng tốt, việc làm không
được giải quyết, nạn thất nghiệp gia tăng, trở thành một gánh nặng, một sức ép về kinh tế,
nảy sinh tiêu cực xã hội, thậm chí gây chấn động đất nước.
Chính vì vậy mà các nhà kinh tế tư sản điển hình như John Maynard Keynes, đưa
ra "lý thuyết về việc làm" và coi việc làm là một vấn đề trung tâm của xã hội tư sản hiện
đại.
Ngày nay, việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội có tính chất toàn
cầu, là mối quan tâm của mọi quốc gia, liên quan đến đời sống hàng tỷ người trên hành
tinh chúng ta. Theo sự đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới đang diễn ra
cuộc khủng hoảng toàn cầu về việc làm (Global Employment Crisis) [13,22], kể cả ở các
nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, ở nông thôn cũng như thành thị, trong
khu vực Nhà nước cũng như khu vực tư nhân. Tình hình việc làm ở nước ta cũng gay gắt,
trở thành vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ
trương đúng đắn, biện pháp hiệu quả để giải quyết việc làm cho người lao động trong tình
hình mới.
Hơn 10 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính sách kinh tế phù
hợp, nhờ đó đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã đạt những thành
tựu bước đầu rất quan trọng, trở thành một nước có nền kinh tế năng động và phát triển
tương đối nhanh trong khu vực.
Song, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, những vấn đề xã hội cũng nổi lên gay
gắt do hậu quả của chiến tranh và chế độ thực dân mới, do mặt trái của kinh tế thị trường
gây ra như nạn thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội... Trong các vấn đề ấy thì
vấn đề lao động, việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp là một trong những vấn đề vừa có
tính cấp bách trước mắt, vừa có tính cơ bản lâu dài ở nước ta.
Giải quyết việc làm cần được hiểu theo nội dung mới là không chỉ đơn thuần trong
phạm vi chính sách xã hội và cũng không chỉ đơn thuần là thanh toán nạn thất nghiệp. Giải
quyết việc làm bao gồm cả một hệ thống vấn đề: tạo điều kiện cho công dân được giáo dục
đào tạo và chuẩn bị tốt hơn để bước vào lập thân, lập nghiệp, được hưởng quyền lợi làm
việc, tự do lao động, sáng tạo và hưởng thụ thành quả chính đáng, được bảo vệ về quyền
sở hữu trí tuệ và vật chất do mình làm ra theo đúng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống, mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và cống hiến cho cộng đồng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, hơn lúc nào
hết, nguồn nhân lực được đặt vào vị trí xứng đáng - là nguồn lực cơ bản nhất, quyết định
nhất đối với các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ, tài nguyên...) Có thể nói, vấn
đề khó khăn nhất hiện nay là muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải áp dụng
khoa học công nghệ vào nền sản xuất xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song,
điều đó đang đứng trước thách thức lớn về việc làm. Vì vậy, vấn đề việc làm cho người lao
động được đặt ra không chỉ là một yêu cầu cấp bách, mà còn là chiến lược an toàn việc
làm cho thập niên đầu thế kỷ 21, không chỉ về kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội,
là một vấn đề trong tổng thể các vấn đề chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta,
như Bác Hồ đã dạy: "Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là mục tiêu, là động lực của
mọi cuộc cách mạng" [32,11]. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Đảng ta đã nhấn mạnh "Bảo đảm công ăn, việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu,
không để thất nghiệp trở thành bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc làm,
đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm
việc và tự tạo việc làm; khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng Nhà nước tổ chức tốt
dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp" [41,99].
Tỉnh Kiên Giang là miền đất có dân số trẻ, tỷ lệ người trong tuổi lao động cao -
đây là một nguồn nhân lực hết sức quý giá của tỉnh. Song Kiên Giang đang đứng trước
thách thức là: Tốc độ tăng dân số còn cao (2,4%) nên bình quân mỗi năm cần giải quyết
việc làm trên 30.000 lao động, số người thất nghiệp còn lớn: 198.965 người, trong đó
88,34% ở nông thôn, 11,65% ở thành thị, đặc biệt số người thất nghiệp trong độ tuổi từ 15
- 34 chiếm gần 70 %, trong đó lao động ở độ tuổi từ 15 - 24 chiếm 35,35% [42]. Những
năm qua, Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội của tỉnh bằng nhiều biện pháp tích cực
nhằm khai thác, phát huy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để giải quyết nguồn lao động quan
trọng này, từ đó đã góp phần thực hiện có kết quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh, từng bước nâng cao đời sống cho người lao động, giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo
trong nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề lao động việc làm của tỉnh vẫn là một trong những vấn
đề kinh tế - xã hội phức tạp, khó khăn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách công phu,
đầu tư thích đáng để tìm ra phương hướng giải quyết cơ bản, lâu dài, có hiệu quả mới
mong khắc phục một phần khó khăn này.
Đó là lý do tôi chọn đề tài "Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội ở Kiên Giang" làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giải quyết việc làm luôn là vấn đề mang tính cấp bách, thời sự, do vậy, đã
có nhiều công trình của nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu và công bố,
đồng thời cũng có rất nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này. Chẳng hạn như các công trình
của Viện khoa học lao động thuộc Bộ Lao động - Thương binh và xã hội; các cuộc hội
thảo về lao động việc làm do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức. ở Kiên
Giang cũng có một số công trình như: "Dự án dân số, lao động - việc làm tỉnh Kiên Giang
thời kỳ 1996 - 2010" và đề tài "Đào tạo nghề, tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 1997 -
2005 của Sở Lao động - thương binh và xã hội tỉnh thực hiện. Tuy nhiên dưới góc độ kinh
tế chính trị thì chưa có đề tài nào trùng tên với đề tài luận án này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích đặc điểm và thực trạng về việc làm ở Kiên
Giang, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả về việc làm nhằm ổn
định phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ
Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản xung quanh lao động, việc làm, thất
nghiệp.
Phân tích thực trạng và những vấn đề bức xúc đặt ra đối với vấn đề giải quyết
việc làm ở Kiên Giang.
Trên cơ sở phân tích, đề xuất phương hướng, giải pháp để giải quyết có hiệu
quả vấn đề việc làm của tỉnh.
4. Đối tượng, giới hạn
Luận án nghiên cứu vấn đề việc làm trong một số ngành kinh tế - dịch vụ cơ bản,
trong độ tuổi lao động của tỉnh Kiên Giang, chủ yếu trong thời kỳ đổi mới kinh tế đất
nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kinh
tế chính trị, phương pháp thống kê, sơ đồ, so sánh, khái quát để phân tích làm rõ nội dung
chủ đề định ra; Đồng thời khảo sát thực tế, sưu tập tư liệu, số liệu, tình hình về lao động
việc làm từ các cơ quan nghiên cứu, quản lý như: UBND, Sở Lao động - thương binh và
xã hội, Cục thống kê, tỉnh Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Công an tỉnh... kết hợp tranh thủ ý
kiến của các "chuyên gia" trong lĩnh vực này.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương
Phần Nội DUNG
Chương 1
Việc Làm Và Các NHÂN Tố
ảnh Hưởng Đến Việc Làm ở KIÊN GIANG
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về lao động việc làm
Lao động, việc làm, thất nghiệp ngày càng không còn giới hạn của mỗi nước mà là
vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm hiện nay của các nước. Bởi lẽ một nước mà lao động thiếu
việc làm, thất nghiệp không chỉ gây ảnh hưởng tiêu cực cho nước đó, mà còn gây ảnh
hưởng tiêu cực đến nhiều nước khác. Thế giới cho rằng vấn đề dân số, lao động, việc làm
là một trong những vấn đề kinh tế xã hội phức tạp và gay gắt trên phạm vi toàn thế giới. Vì
nó vừa là nền tảng, và là chủ thể, vừa là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, vừa là
người tiêu dùng của cải vật chất do lao động làm ra. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế
giới cho thấy: dân số, lao động và việc làm là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để xây
dựng mô hình kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng cho sự ổn định kinh tế - chính trị - xã
hội, bản thân nó vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề chính trị - văn
hóa.
Một trong những nguyên nhân cơ bản trực tiếp của những hiện tượng tiêu cực
đang lan tràn trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay ở các nước trên thế giới là tình trạng
thất nghiệp đang trầm trọng. Những người thất nghiệp đó họ không có nguồn thu nhập
chính đáng bằng lao động của mình nên tự phát tham gia vào quá trình "phân phối lại" số
của cải vật chất của xã hội bằng mọi con đường, dưới mọi hình thức, thậm chí có một bộ
phận bị tha hóa nghiêm trọng, họ rơi vào tận đáy xã hội - đó là số tội phạm, gái mãi dâm...
Chính vì vậy, không thể nói đến yếu tố con người là vấn đề quý nhất của xã hội
một cách trừu tượng, siêu thực, mà con người là vốn quý nhất - xét cả về phương diện sản
xuất, chỉ trong sự phù hợp với những nhu cầu về nó của sự phát triển nền kinh tế. Sự mất
cân đối giữa số cung và cầu về lao động tới một giới hạn nào đó là sự nguy hại cho sự phát
triển bình thường của một quốc gia dân tộc.
Theo đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới ngày nay đang ở trong
tình trạng khủng hoảng thị trường lao động trầm trọng nhất kể từ những năm 30 đến nay.
Năm 1994 trên thế giới có trên 120 triệu người thất nghiệp. Song trên thực tế hiện nay con
số đó có thể còn cao hơn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở các nước Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hòa
Liên bang Đức, Italia trong những năm 80 - 90 mắc từ 7 - 12%, ở Nhật khoảng 2%, những
năm gần đây đã lên trên 3%, Thái Lan 6%, Malayxia 3,5% [30]. Ước tính, nếu các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển hiện nay giảm thời gian lao động xuống còn 30 giờ/tuần, trong đó
10% dùng để đào tạo liên tục, thì có thể đủ việc làm cho mọi người trong độ tuổi lao động.
Nhưng một khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn giữ địa vị thống trị, sản xuất giá trị
thặng dư cho nhà tư bản vẫn là động lực cơ bản của sản xuất, thì điều đó không thể xảy ra
được.
Tại Hội nghị toàn thể lần thứ 81 của ILO tháng 6/1994 đã nêu: giải quyết việc làm,
chống đói nghèo, phát triển nguồn nhân lực là nội dung chủ yếu của chương trình hành
động của ILO trong thập kỷ từ nay đến năm 2000 [30]. Đồng thời, trong Hội nghị thượng
đỉnh về phát triển xã hội tại Copenhagen (Đan Mạch) vào tháng 3/1995 đã nêu 3 vấn đề
được tập trung thảo luận là chống đói nghèo, mở rộng việc làm và hòa nhập xã hội. Hội
nghị đã tuyên bố:
Chúng tôi cam kết thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu có đủ việc làm như một ưu
tiên cơ bản của chính sách kinh tế và xã hội của mình và làm cho mọi người nam cũng như
nữ có một cuộc sống bảo đảm và bền vững thông qua tự do lựa chọn công ăn việc làm. Hội
nghị cũng khẳng định ở cấp quốc gia của các nước cần phải có các giải pháp vĩ mô về việc
làm [30].
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lao động việc làm
Vấn đề con người trong đó có việc làm nằm ở vị trí trung tâm của nhiều hệ thống
quan điểm chính trị - xã hội từ trước đến nay. Bởi vì hơn bao giờ hết, vấn đề nhân tố con
người và khai thác tiềm năng của con người trong quá trình phát triển của xã hội có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng như ngày nay.
Chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi làm sâu sắc thêm nhận thức của mình về chủ
nghĩa xã hội đều khẳng định vị trí cao nhất và bao trùm của vấn đề con người; chiến lược
con người được khẳng định như chiến lược của mọi chiến lược. Nhân tố con người được
phát huy và khai thác đầy đủ hơn nhằm tạo ra động lực để tiến hành công cuộc đổi mới xã
hội, đồng thời sự nghiệp giải phóng con người được coi như là mục tiêu cao nhất của chủ
nghĩa xã hội.
Ăngghen đã từng khẳng định: “ xã hội cộng sản là xã hội mỗi thành viên của nó có
thể phát triển hoàn toàn tự do và phát huy tiềm năng, sức lực của mình, đồng thời không
xâm phạm đến những điều kiện cơ bản của xã hội" [27,354]. Mác - Ăngghen nhấn mạnh:
Thay thế cho xã hội tư bản với những gai cấp và đối kháng giai cấp sẽ là một liên hiệp mới
mà trong đó "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
mọi người" [27,260]. Lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, đã được những thành
tựu mới của các nhà khoa học, trong nhiều công trình lý luận xuất hiện những năm gần đây
đã làm sáng tỏ ra các khía cạnh chủ yếu sau đây: con người là một thực thể xã hội mang
bản chất xã hội, nhưng đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh vật học. Do
đó, con người có nhu cầu vật chất và nhu cầu đó cần được thỏa mãn bên cạnh những nhu
cầu về tinh thần, có lợi ích vật chất cùng với lợi ích tinh thần chi phối lý trí, tình cảm và hành
động, một trong những nhu cầu đó chính là lao động, việc làm.
Lao động là một phạm trù vĩnh viễn, nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự
xuất hiện, tồn tại và phát triển của loài người. Nói đến vai trò quan trọng của lao động, nhà
kinh tế học thuộc phái cổ điển Anh - William Pelty - đã nói: "Lao động là cha, đất là mẹ
của mọi của cải". Theo C. Mác, lao động, đó là sự kết hợp giữa sức lao động của con
người (yếu tố hàng đầu cơ bản nhất của lực lượng sản xuất) với đối tượng lao động, là hoạt
động có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên. Phát minh vĩ đại của Mác -
Ăngghen đó là: hai ông đã khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã
hội loài người.
Sản xuất vật chất càng tiến bộ thì càng nâng cao ý nghĩa nhân tố con người trong
hoạt động và phát triển sản xuất. Cách mạng khoa học kỹ thuật (và ngày nay là cách mạng
khoa học - công nghệ) không những không dẫn đến giảm vai trò của con người, mà còn
càng nâng cao chức năng sáng tạo của con người, đề ra cho lao động những yêu cầu mới
cao hơn.
Nói đến lao động là nói đến sự hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác
động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải, sản phẩm hàng hóa. Do đó không có lao
động chung chung, trừu tượng - lao động thể hiện ở việc làm. Càng nhiều người lao động
khác nhau, có chuyên môn nghề nghiệp khác nhau càng làm cho cơ cấu lao động cụ thể,
việc làm đa tầng, đa dạng hơn.
Lao động là phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của những thu
nhập đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của mọi thành viên và của toàn xã hội. Không có cá
nhân nào lại có quyền trút cho người khác cái nghĩa vụ lao động của mình vốn là điều kiện
tự nhiên của sự sống còn của loài người. Nhưng lao động và việc làm gắn chặt với hình
thái kinh tế - xã hội, chính hình thái kinh tế - xã hội lại chi phối tính chất, cơ chế sử dụng
lao động và việc làm. ở các hình thái kinh tế - xã hội trước, như chế độ chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa, thì người lao động bị bóc lột dưới hình thức này hoặc hình
thức khác, lao động không được quý trọng và vì thế trong nhiều trường hợp người ta coi
thứ lao động là sự bắt buộc, là cái tất yếu để kiếm sống. Còn trong chủ nghĩa xã hội phải
làm sao cho lao động trở thành "nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc
của chúng ta" [32,12], lao động trở thành sự hứng thú, là phương tiện tự biểu hiện, tự
khẳng định của con người. Lao động, việc làm gắn chặt với nhau trong bản chất, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội như Bác Hồ đã nói "Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý
xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa" [31,38] và "Chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu nước mạnh, dân có giàu thì
nước mới mạnh" [31,44]. Đó là vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong hiện tại và
tương lai.
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề lao động, việc làm
Ngày nay, nhân dân ta đang bước vào một cuộc chiến đấu mới vì cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, vì công bằng xã hội. Thời cơ lịch sử của sự phát triển của đất nước đã đến.
Công cuộc đổi mới đang diễn ra nhanh chóng và vững chắc. Chủ trương xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đang từng bước định hình và khẳng định vai trò
của nó trong xã hội mới.
Sự phát triển năng động của khu vực Châu á Thái Bình Dương, môi trường hòa
bình và ổn định trong khu vực, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đa phương hóa các
quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta đã mở ra khả năng to lớn để Việt Nam hội nhập
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Nhân dân ta giàu lòng yêu nước, có ý thức tự lực, tự
cường, thông minh, sáng tạo, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng tạo nên nguồn lực
to lớn để xây dựng đất nước. Đó là thời cơ lớn.
Nhưng 4 nguy cơ mà Đảng ta nêu lên cho đến nay vẫn là những thách thức lớn,
trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là nguy cơ nổi
cộm lên rất gay gắt, do điểm xuất phát của ta quá thấp, kéo theo hậu quả xấu về công ăn
việc làm, đời sống và các vấn đề xã hội khác. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
chăm lo nhiều hơn nữa sự nghiệp văn hóa - xã hội, coi đó là động lực và mục tiêu của kinh
tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển đất nước. Trong đó lao động, việc làm được coi là một trong
những vấn đề xã hội gốc rễ, căn bản nhất. Giải quyết đủ việc làm có hiệu quả, chính là giải
quyết tận gốc những căn nguyên sâu xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, bảo đảm giữ gìn
trật tự kỷ cương và an toàn xã hội. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và khó khăn.
Nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số phát triển về con người, là một thứ
vốn cùng với vốn tài chính tạo nên dòng chủ đạo của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên
Tổng Bí thư Đỗ Mười đã xác định "Nguồn lực đó chính là người lao động có trí tuệ cao, có
tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo và bồi dưỡng, phát huy bởi một nền
giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại" [8,11]. Vai trò quyết
định của nguồn lực con người đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng
ta xác định là nguồn lực "quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta, khi
nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp". Các nguồn lực khác như vốn, khoa
học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên - dù có nhiều bao nhiêu cũng là hữu hạn, nó không
có sức mạnh tự thân và sẽ mất đi trong quá trình khai thác của loài người. Hơn thế, chúng
chỉ phát huy tác dụng và có hiệu quả khi có ý thức của con người. Cho nên, chỉ có con
người với trí tuệ và tài năng là tài nguyên vô tận không bao giờ cạn kiệt, có khả năng phục
hồi và tự tái sinh nếu chúng ta biết nuôi dưỡng, thúc đẩy nó phát triển. Thông qua quá trình
đó, năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người được phát triển. Đó cũng
chính là quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin; xem con người là
điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi quá trình biến đổi lịch sử và cũng đúng với quan
điểm của Bác Hồ và của Đảng ta xem con người là "vốn quý nhất". Quan điểm trên được
thể hiện trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Đảng ta xác
định. " Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa năng lực lao động xã hội là mục tiêu quan trọng
hàng đầu của chiến lược, một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công
nghệ " [9,35]. Gần đây, trong mục những chủ trương chính sách lớn của Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4