Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là bộ phận trọng yếu của kinh tế
nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Ở nước ta trong 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương
3 khoá IX, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đã có những đóng góp đáng kể vào GDP, tổng
thu ngân sách nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội khác. Tuy
vậy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, sức
cạnh tranh thấp,. Vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã đưa
ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước" [18, tr.232].
Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh vừa mới được chia tách từ đơn vị
hành chính Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến nay doanh nghiệp nhà
nước của tỉnh đã có những bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song, các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng
Nam hầu hết là quy mô vừa và nhỏ, trừ một số ít doanh nghiệp đang có nhiều
nỗ lực để duy trì khả năng hoạt động trong điều kiện chưa hội đủ các yếu tố
của nền kinh tế thị trường, thì phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đang trong
tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, cần phải có giải pháp sắp xếp,
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
105 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhà
nước tỉnh Quảng Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là bộ phận trọng yếu của kinh tế
nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Ở nước ta trong 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương
3 khoá IX, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đã có những đóng góp đáng kể vào GDP, tổng
thu ngân sách nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội khác. Tuy
vậy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, sức
cạnh tranh thấp,... Vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã đưa
ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước" [18, tr.232].
Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh vừa mới được chia tách từ đơn vị
hành chính Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến nay doanh nghiệp nhà
nước của tỉnh đã có những bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song, các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng
Nam hầu hết là quy mô vừa và nhỏ, trừ một số ít doanh nghiệp đang có nhiều
nỗ lực để duy trì khả năng hoạt động trong điều kiện chưa hội đủ các yếu tố
của nền kinh tế thị trường, thì phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đang trong
tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, cần phải có giải pháp sắp xếp,
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Vì thế, đề tài nghiên cứu “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả, nhiều nhà lý luận nghiên cứu về hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng,
nghiên cứu về các giải pháp đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
dưới các góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước - tác giả
PGS.TSKH Đỗ Nguyên Khoát đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5/2004.
- Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay của Đoàn Ngọc Phúc, đăng trên tạp chí
Khoa học Chính trị, số 6 năm 2002.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam của
TS Lê Khoa, đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 4/2002.
- Thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng về nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên tạp chí Cộng
sản, số 8 tháng 4/2004.
- Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước của Phạm Đức Trung đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, số 11 năm 2003.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá
trình hội nhập của TS Nguyễn Đăng Nam đăng trên tạp chí Tài chính, số 1+2
năm 2003.
- Để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đình
Kháng.
- Các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta của GS.TS Chu Văn Cấp.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nhà nước trong quá trình hội
nhập của TS Nguyễn Văn Quảng đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2/2005.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh - vấn đề sống còn đối với doanh
nghiệp Việt Nam tham gia AFTA của Đoàn Nhật Dũng đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế, số 281 tháng 10/2001.
- Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam của Đặng Thành Lê đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế, số 304 tháng 9/2003.
- Một số quan điểm chỉ đạo bảo đảm nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đỗ Huy
Hà đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9/2004.
Và rất nhiều công trình khác.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn ít đề tài nghiên cứu một cách cụ thể và
có hệ thống về hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhà nước ở Quảng
Nam dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Do đó, đề tài luận văn này không
trùng lặp với các công trình, bài viết đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh
Quảng Nam hiện nay, qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng
và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước,
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và ở Quảng Nam nói riêng.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng
Nam, những kết quả và tồn tại, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đến
năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Tất cả các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam thuộc sự quản lý nhà
nước của tỉnh, có quan hệ trực tiếp và tác động ảnh hưởng đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4.2. Giới hạn phạm vi và thời gian nghiên cứu
- Đi sâu nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế, các định hướng chung, tổng
quát, cũng như các quan điểm... liên quan đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước, đề tài không đi vào mặt kỹ thuật, nghiệp vụ cụ thể
để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam
có 100% vốn nhà nước và hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Không nghiên cứu các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích
cũng như các doanh nghiệp nhà nước của Trung ương và của các tỉnh, thành
phố đóng chân và hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Thời gian nghiên cứu từ 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật... của Đảng và Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp và các phương pháp phân tích thống kê
để xử lý số liệu và kết quả điều tra khảo sát thực tiễn, đặc biệt là phương pháp
tổng kết thực tiễn để rút ra các bài học kinh nghiệm.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan hữu quan của tỉnh hoạch định chính sách, giải pháp cải cách
doanh nghiệp nhà nước của tỉnh nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, đồng thời ứng dụng hợp lý các giải pháp đối với các doanh nghiệp nhà
nước của tỉnh Quảng Nam đang tồn tại và hoạt động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết
Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu qủa kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 1
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
1.1. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở
các nước, do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số
liệu thống kê với mục đích khác nhau.
Theo tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) doanh
nghiệp nhà nước được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà
nước hoặc do nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng
hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, doanh nghiệp nhà nước bao
gồm các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các Bộ, Ngành, các
doanh nghiệp mà nhà nước giữ phần lớn cổ phần, song do sự phân tán của cổ
đông mà nhà nước nắm giữ quyền chi phối.
Ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống pháp luật
Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm
đối với sở hữu nhà nước, thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Năm 1995
Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước và định nghĩa: “Doanh
nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư
cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh
nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ
Việt Nam” [26, tr.1]. Điểm mới về những thay đổi trong chính sách và cơ cấu
kinh tế ở nước ta quy định bởi nội dung định nghĩa này được phản ánh:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư, thành lập và
quản lý, nghĩa là hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Các quy chế hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào ý chí của chủ sở hữu. Mối quan
hệ giữa nhà nước với người lao động không đơn thuần là quan hệ nhà nước
với chủ thể pháp luật mà còn là quan hệ giữa chủ sở hữu với người được chủ
sở hữu giao quản lý tài sản. Đây là điểm khác biệt đối với doanh nghiệp tư
nhân cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước dưới tác động của cạnh tranh và dưới
tác động của các nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh, quốc phòng được phân
thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích. Việc phân chia này được đưa ra lần đầu tiên và
được đề cập trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995.
Thứ ba, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đã xác định tính
chất vô hạn trong quan hệ với các chủ thể khác đồng thời khẳng định giới hạn
trách nhiệm của nhà nước trong phạm vi phần vốn mà Nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp nhà nước. Đây là vấn đề mà doanh nghiệp nhà nước cần chú ý
khi tham gia các giao dịch dân sự, thương mại với các doanh nghiệp, các tổ
chức khác.
Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được phát triển tương
đối sâu trong định nghĩa và các quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước
năm 2003, được thể hiện ở điều I: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế
do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty
trách nhiệm hữu hạn” [27, tr.7-8]. Có thể hiểu rằng: Khái niệm của Luật
doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chứa đựng nhiều đổi mới phản ánh những
thay đổi khá cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính
sách của nước ta đối với thành phần kinh tế nhà nước cũng như các thành
phần kinh tế khác.
Thứ nhất, việc xác định doanh nghiệp nhà nước không hoàn toàn dựa
vào tiêu chí sở hữu như trước đây mà tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhà
nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 là quyền kiểm soát và chi
phối doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận
doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong
một doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là có những loại doanh nghiệp nhà nước
mà trong đó các hình thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng với nhau
trên nguyên tắc của nền dân chủ cổ phần. Bất kì là Nhà nước, các nhà đầu tư,
các doanh nhân nếu góp vốn nhiều thì có nhiều khả năng chi phối doanh
nghiệp nhà nước.
Thứ ba, thừa nhận khả năng chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành
doanh nghiệp thông thường, thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ
phần - Nghĩa là trong quá trình tồn tại, do sự vận động của cổ phần giữa các
cổ đông với nhau dẫn đến nhà nước không còn nắm giữ được đủ số lượng cổ
phần chi phối thì sẽ không bảo đảm được quyền chi phối, và do vậy doanh
nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa.
Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã đa dạng hoá các
doanh nghiệp nhà nước trên tiêu chí quyền chi phối. Khác với trước đây,
doanh nghiệp nhà nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp nhà nước độc lập
hoặc Tổng Công ty nhà nước thì nay doanh nghiệp nhà nước cũng có thể tồn
tại dưới nhiều dạng khác nhau. Chính sự đa dạng về hình thức tồn tại của
doanh nghiệp nhà nước sẽ làm sinh động thành phần kinh tế công, làm cho nó
thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo nội dung khái niệm của Luật Doanh nghiệp nhà nước
2003 thì doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh
nghiệp và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản
lý. Doanh nghiệp nhà nước cũng có nhiều loại hình khác nhau tuỳ theo qui
mô kinh doanh, chức năng, nhiệm vụ, mức độ liên kết kinh doanh và hoạt
động độc lập mà có tên gọi khác nhau như: Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty
nhà nước, Công ty nhà nước có hoặc không có Hội đồng quản trị.
Trên cơ sở mục đích hoạt động, quy mô, hình thức và cách tổ chức
quản lý mà doanh nghiệp nhà nước được phân thành các loại doanh nghiệp
khác nhau, như: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích; doanh nghiệp nhà nước độc lập; doanh nghiệp
nhà nước thành viên; doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh
nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị.
Sơ đồ 1.1: Các loại hình doanh nghiệp nhà nước
theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003
Nguồn: [5, tr.248].
Doanh nghiệp nhà nước
Công ty nhà nước
DN hoạt động theo Luật DN có
cổ phần 100% hoặc chi phối
của nhà nước
Loại
100%
vốn NN
DN có cổ
phần, vốn
góp NN
trên 50%
vốn Điều
lệ
DN do
NN hoặc
DNNN
có quyền
chi phối
Công ty
NN
không có
HĐQT
Công ty
NN có
HĐQT
Loại
Độc lập
Tổng
công ty
TCT do
NN
Quyết
định đầu
tư và
thành
Lập
TCT
chuyên
đầu tư
và kinh
doanh
vốn NN
Loại do
các
công ty
tự đầu
tư và
thành
lập
Công ty
cổ phần
nhà
nước
Công ty
TNHH
nhà
nước 1
thành
viên
Công ty
TNHH
nhà
nước có
2 thành
viên trở
lên
Như vậy, trải qua quá trình thay đổi của các thời kì, khái niệm doanh
nghiệp nhà nước đã được hoàn thiện hơn, quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp nhà nước được mở rộng và qui định chi tiết tại các Điều 12, 13, 14, 15,
16, 17, 18, 19, 20 chương III, Điều 57, 58, 59 chương V, Điều 70, 71 mục 3
chương VI của Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, thể hiện căn bản
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở bảo
toàn, phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn do nhà nước đầu tư
hoặc do doanh nghiệp tự huy động, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trước
kết quả lỗ lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và phải
thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với chủ sở hữu,
đối với người lao động theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Định hướng xã hội chủ nghĩa là xác định và điều khiển hướng phát
triển nền kinh tế quốc dân theo con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, mô hình xã
hội lí tưởng của Cách mạng Việt Nam mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chọn. Đây được coi là nguyên tắc lớn, có tính bao trùm, xuyên suốt và vạch rõ
hướng đích cho cả quá trình phát triển lâu dài, ổn định của đất nước trên mọi
lĩnh vực, trong đó có phát triển kinh tế. Nguyên tắc này cũng vạch rõ mục tiêu
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của xã
hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, nguyên tắc này cũng
xác định nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng là nền
kinh tế trong đó có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhưng
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Định
hướng này đã được Đảng ta chủ trương ngay từ Đại hội VI (tháng 12/1986)
của Đảng, đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Và tiếp tục khẳng định trong các lần Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và tại Đại hội lần thứ X của Đảng định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được khẳng
định là: “Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng
cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng
bước khá giả hơn” [18, tr.77]. Điều này cũng có nghĩa rằng, yêu cầu xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải nâng
cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước.Vì rằng: “Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [18, tr.83].
Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu, quan trọng của
kinh tế nhà nước, một lực lượng vật chất cơ bản để kinh tế nhà nước thực hiện
vai trò chủ đạo, đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt các
mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước. Do vậy, vai trò của doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền
với việc tham gia tích cực vào quá trình gia tăng nguồn lực kinh tế của nhà
nước với tư cách vừa là chủ thể kinh doanh, là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở
vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt của nhà nước dẫn dắt,
mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Như vậy, thể hiện trên 3 khía cạnh: Kinh tế, chính trị - xã hội và môi
trường có thể khái quát nội dung vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
- Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự
ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Là lực lượng kinh tế nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, bảo đảm những cân đối lớn cho nền kinh tế góp phần tạo ra môi
trường, tiền đề và mở đường hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển,
thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của toàn bộ nền kinh tế, lôi cuốn các thành phần
kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Là lực lượng xung kích đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp
phần thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Là lực lượng đối trọng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước,
không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh, là lực
lượng nòng cốt, chủ lực trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Là lực lượng nắm những vị trí