Theo Luật Kế toán Việt Nam, KTQT “ là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài
chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. [2, trang 13]
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa Kỳ thì KTQT “là quá
trình nhận diện, đo lƣờng, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin trong quá
trình thực hiện các mục đích của tổ chức. Kế toán quản trị là một bộ phận thống
nhất trong quá trình quản lý, và nhân viên kế toán quản trị là những đối tác chiến
lƣợc quan trọng trong đội ngũ quản lý của tổ chức”. [2, trang 13]
Theo định nghĩa của Hiệp hội kế toán quốc gia (Mỹ), “KTQT là quá trình
cung cấp thông tin cho nhà quản lý doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế
hoạch, trong việc kiểm soát, điều hành các hoạt động của doanh nghiệp. Quy trình
kế toán quản trị bao gồm các công việc xác định, cân, đo, đong, đếm, thu thập, tích
lũy, phân tích, chuẩn bị thông tin, giải thích và cung cấp thông tin cho các nhà quản
lý để các nhà quản lý xử lý các thông tin này theo hƣớng có lợi nhất cho doanh
nghiệp”. [5, trang 26]
83 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 3240 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hệ thống kế toán trách nhiệm tại Công ty CP chứng khoán Sài Gòn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN
Hoàn thiện hệ thống kế toán trách nhiệm tại
Công ty CP chứng khoán Sài Gòn Hà Nội
1
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về kế toán quản trị
1.1.1 Khái niệm kế toán quản trị
Theo Luật Kế toán Việt Nam, KTQT “ là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài
chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. [2, trang 13]
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa Kỳ thì KTQT “là quá
trình nhận diện, đo lƣờng, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin trong quá
trình thực hiện các mục đích của tổ chức. Kế toán quản trị là một bộ phận thống
nhất trong quá trình quản lý, và nhân viên kế toán quản trị là những đối tác chiến
lƣợc quan trọng trong đội ngũ quản lý của tổ chức”. [2, trang 13]
Theo định nghĩa của Hiệp hội kế toán quốc gia (Mỹ), “KTQT là quá trình
cung cấp thông tin cho nhà quản lý doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế
hoạch, trong việc kiểm soát, điều hành các hoạt động của doanh nghiệp. Quy trình
kế toán quản trị bao gồm các công việc xác định, cân, đo, đong, đếm, thu thập, tích
lũy, phân tích, chuẩn bị thông tin, giải thích và cung cấp thông tin cho các nhà quản
lý để các nhà quản lý xử lý các thông tin này theo hƣớng có lợi nhất cho doanh
nghiệp”. [5, trang 26]
Do đó, có rất nhiều quan điểm và định nghĩa về kế toán quản trị nhƣng qua các
quan điểm và định nghĩa trên chúng ta có thể tóm tắt Kế toán quản trị là một phần
của kế toán phục vụ cho quá trình quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Kế toán quản
trị giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong quá trình hoạch định, kiểm soát và
ra quyết định.
1.1.2 Vai trò kế toán quản trị
Vai trò của KTQT là cung cấp thông tin giúp nhà quản trị ra các quyết định
2
liên quan đến các chức năng quản trị cơ bản là hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm
soát – kiểm tra, phân tích điều chỉnh và ra quyết định. [4, trang 2]
Ra quyết định. Đây là chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu quản trị
doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến kiểm tra, đánh giá.
Nhà quản lý ở mọi cấp độ trong tổ chức đều phải ra quyết định.
Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin. Vai trò của KTQT là
cung cấp thông tin sao cho quản lý có thể đạt đƣợc thông tin có ý nghĩa. Nhƣ vậy,
ngoài việc hiểu quá trình ra quyết định của nhà quản trị, KTQT còn phải nắm đƣợc
loại quyết định mà từng cấp quản trị trong tổ chức phải thực hiện để có thể cung cấp
loại thông tin thích hợp. [4, trang 2]
1.2 Tổng quát về hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp
Để quản lý có hiệu quả các tổ chức kinh doanh với quy mô lớn, các nhà quản trị
thƣờng tiến hành việc phân quyền phù hợp với cấu trúc tổ chức của đơn vị mình. Kế
toán quản trị vốn đƣợc xem là một công cụ kiểm soát của quá trình quản lý doanh
nghiệp đã hình thành phƣơng pháp tƣơng ứng để phục vụ cho quá trình phân quyền
– đó chính là hệ thống kế toán trách nhiệm. [5, trang 107]
1.2.1 Bản chất của kế toán trách nhiệm
Hệ thống kế toán trách nhiệm đƣợc thiết lập để có thể ghi nhận, đo lƣờng kết
quả hoạt động của từng bộ phận trong tổ chức, trên cơ sở đó lập các báo cáo thực
hiện nhằm phục vụ cho các nhà quản lý kiểm soát đƣợc hoạt động và chi phí của họ.
Nói cách khác, kế toán trách nhiệm là một phƣơng pháp kế toán thu thập và báo cáo
các thông tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và đầu ra” của các trung tâm trách
nhiệm. [5, trang 108]
Kế toán trách nhiệm đo lƣờng, đánh giá trách nhiệm quản lý và kết quả hoạt
động của từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp.
Việc đánh giá này thƣờng đƣợc dựa trên hai tiêu chí đó là hiệu quả và hiệu năng.
Hiệu quả: có đƣợc khi đạt đƣợc mục tiêu đặt ra mà chƣa kể đến việc sử dụng tài
nguyên nhƣ thế nào, nó đƣợc xác định bằng cách so sánh giữa kết quả đạt đƣợc và
mục tiêu đặt ra cho trung tâm trách nhiệm đó. Nói cách khác, đó chính là mức độ
3
mà trung tâm trách nhiệm hoàn thành mục tiêu của mình. [5, trang 108]
Hiệu năng: là tỷ lệ giữa đầu ra so với đầu vào của trung tâm trách nhiệm hoặc đó
là tỷ lệ giữa kết quả thực tế đạt đƣợc so với nguồn tài nguyên thực tế mà trung tâm
trách nhiệm đã sử dụng để tạo ra kết quả đó. [5, trang 108]
Nhƣ vậy, để có thể đánh giá đƣợc hiệu quả và hiệu năng của các trung tâm trách
nhiệm, chúng ta phải lƣợng hóa đƣợc đầu vào và đầu ra của các trung tâm trách
nhiệm. Trên cơ sở đó sẽ xác định đƣợc các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá kết quả hoạt
động của từng trung tâm cụ thể.
1.2.2 Vai trò kế toán trách nhiệm
Hệ thống kế toán trách nhiệm đƣợc thiết lập để ghi nhận, đo lƣờng kết quả hoạt
động của từng bộ phận trong một tổ chức, nhằm giúp các nhà quản lý kiểm soát
đƣợc hoạt động và chi phí của họ, đồng thời qua đó đánh giá đƣợc trách nhiệm của
nhà quản trị ở từng cấp quản lý khác nhau. Do vậy, KTTN đƣợc thực hiện trên
nguyên tắc là nó tập hợp và báo cáo những thông tin kế toán thực tế và đƣợc dự
toán về các đầu vào, đầu ra của các trung tâm trách nhiệm.
1.3 Chức năng và đối tƣợng sử dụng thông tin kế toán trách nhiệm
1.3.1 Chức năng của kế toán trách nhiệm
Kế toán trách nhiệm là một phƣơng pháp phân chia cấu trúc của một tổ chức
thành những trung tâm trách nhiệm khác nhau để đo lƣờng biểu hiện của chúng. Nói
cách khác, kế toán trách nhiệm là một “công cụ” để đo lƣờng kết quả hoạt động của
một khu vực nào đó trong tổ chức, qua đó giúp nhà quản trị kiểm soát và đánh giá
trách nhiệm quản trị ở từng cấp quản trị khác nhau. Chức năng của Kế toán trách
nhiệm đƣợc thể hiện ở những khía cạnh sau đây: [4, trang 9]
- Kế toán trách nhiệm giúp xác định sự đóng góp của từng đơn vị, bộ phận vào
lợi ích của toàn bộ tổ chức.
- Kế toán trách nhiệm cung cấp một cơ sở cho việc đánh giá chất lƣợng về kết
quả hoạt động của những nhà quản lý bộ phận.
- Kế toán trách nhiệm đƣợc sử dụng để đo lƣờng kết quả hoạt động của các nhà
quản lý, do đó nó ảnh hƣởng đến cách thức thực hiện hành vi của các nhà quản lý
4
này.
- Kế toán trách nhiệm thúc đẩy các nhà quản lý bộ phận điều hành bộ phận của
mình theo phƣơng cách phù hợp với những mục tiêu cơ bản của toàn bộ tổ chức.
1.3.2 Đối tƣợng sử dụng thông tin kế toán trách nhiệm
Thông tin Kế toán trách nhiệm là một bộ phận thông tin quan trọng của Kế toán
quản trị, và do vậy đối tƣợng sử dụng thông tin Kế toán trách nhiệm cũng gồm các
nhà quản trị cấp thấp, cấp trung và cấp cao, nhằm đánh giá trách nhiệm quản trị của
từng bộ phận cấu thành từng cấp quản lý cụ thể. [4, trang 9 -10]
- Đối với nhà quản trị cấp cao: Kế toán trách nhiệm cung cấp thông tin cho việc
thực hiện chức năng tổ chức và điều hành của doanh nghiệp. KTTN xác định các
trung tâm trách nhiệm, qua đó nhà quản lý có thể hệ thống hoá các công việc của
từng trung tâm mà thiết lập các chỉ tiêu đánh giá. KTTN giúp nhà quản trị đánh giá
và điều chỉnh các bộ phận cho thích hợp.
- Đối với nhà quản trị cấp trung: Kế toán trách nhiệm cung cấp thông tin cho
việc thực hiện chức năng kiểm soát tài chính và kiểm soát quản lý. Thông qua
KTTN, nhà quản trị có thể phân tích, đánh giá chi phí, doanh thu và lợi nhuận thực
hiện của từng bộ phận. Báo cáo trách nhiệm phản hồi cho ngƣời quản lý biết thực
hiện kế hoạch của các bộ phận ra sao, nhận diện các vấn đề hạn chế để có sự điều
chỉnh các chiến lƣợc mục tiêu ra sao cho kết quả kinh doanh là tốt nhất. Đây có thể
xem là nguồn thông tin quan trọng để nhà quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
tăng doanh thu, giảm chi phí một cách hợp lý, và cuối cùng là tối đa hoá mợi nhuận.
- Đối với nhà quản lý cấp thấp: Kế toán trách nhiệm khuyến khích nhà quản lý
hƣớng đến mục tiêu chung của tổ chức. Mục tiêu chiến lƣợc của doanh nghiệp đƣợc
gắn với các trung tâm trách nhiệm. Khi KTTN có thể kiểm soát đƣợc công tác tài
chính và công tác quản lý, sẽ điều chỉnh hoạt động hƣớng đến các mục tiêu chung
của doanh nghiệp. Đồng thời, bản thân các giám đốc trung tâm trách nhiệm đƣợc
khích lệ hoạt động sao cho phù hợp với các mục tiêu cơ bản của toàn doanh nghiệp.
5
1.4 Nội dung của kế toán trách nhiệm
Nội dung cơ bản để thực hiện hệ thống Kế toán trách nhiệm bao gồm những vấn đề
cụ thể nhƣ sau:
- Phân cấp quản lý và xác định các trung tâm trách nhiệm.
- Xác định các chỉ tiêu đƣợc sử dụng để đánh giá trách nhiệm quản trị bộ phận.
- Xác định trách nhiệm báo cáo của từng trung tâm trách nhiệm.
1.4.1 Sự phân cấp quản lý và xác định các trung tâm trách nhiệm
1.4.1.1 Sự phân cấp quản lý
Kế toán trách nhiệm là công việc đƣợc thực hiện không thể tách rời các
trung tâm trách nhiệm. Các trung tâm này đƣợc hình thành thông qua việc phân cấp
quản lý. Theo đó, để thực hiện các chức năng quản lý của mình, ngƣời quản lý cấp
cao phải thể hiện đƣợc đúng đắn quyền lực của mình, phải gây đƣợc ảnh hƣởng và
sức thuyết phục đối với nhân viên, đồng thời phải tiến hành phân cấp, ủy quyền cho
cấp dƣới nhằm giúp cấp dƣới có thể điều hành các công việc thƣờng xuyên tại bộ
phận mà họ quản lý. [4, trang 10-11]
6
1.4.1.2 Xác định các trung tâm trách nhiệm
Trung tâm trách nhiệm là một chức năng hay một bộ phận trong một tổ
chức, đặt dƣới sự lãnh đạo của một nhà quản trị hoặc một cấp quản lý, chịu trách
nhiệm trực tiếp với kết quả của chức năng hay bộ phận đó. Trong một tổ chức có
thể đƣợc xác lập bởi bốn loại trung tâm trách nhiệm cơ bản sau:
- Trung tâm chi phí: Trung tâm chi phí là một loại trung tâm trách nhiệm
thể hiện phạm vi cơ bản của hệ thống xác định chi phí, là điểm xuất phát của các
hoạt động nhƣ: Lập dự toán chi phí, phân loại chi phí thực tế phát sinh, so sánh chi
phí thực tế với định mức chi phí tiêu chuẩn. Trung tâm chi phí gắn liền với cấp quản
lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc gián tiếp phục
vụ kinh doanh. Theo đó, ngƣời quản lý chỉ chịu trách nhiệm hoặc chỉ có quyền kiểm
soát đối với chi phí phát sinh ở bộ phận mình, không có quyền đối với việc tiêu thụ
và đầu tƣ vốn. Trung tâm chi phí đƣợc chia thành hai dạng: [4, trang 11-12]
+ Trung tâm chi phí định mức: là trung tâm chi phí mà các yếu tố chi phí
và các mức hao phí về các nguồn lực sử dụng để sản xuất một đơn vị sản phẩm,
dịch vụ đều đƣợc xây dựng định mức cụ thể. Nhà quản trị trung tâm chi phí định
mức có trách nhiệm kiểm soát chi phí thực tế phát sinh, để vẫn đảm bảo kế hoạch
sản xuất cũng nhƣ đảm bảo kế hoạch chi phí cho từng đơn vị sản phẩm, dịch vụ và
tính cho toàn bộ. Đối với trung tâm này thì hiệu suất đƣợc đo lƣờng bởi mối liên hệ
giữa đầu vào và đầu ra, còn tính hiệu quả đƣợc đo lƣờng bằng mức độ trung tâm đạt
đƣợc sản lƣợng mong muốn tại những mức độ về chất lƣợng và thời gian đã định.
+ Trung tâm chi phí dự toán: là trung tâm chi phí mà các yếu tố đƣợc dự
toán và đánh giá căn cứ trên nhiệm vụ đƣợc giao tính chung, không thể xác định cụ
thể cho từng đơn vị sản phẩm hoặc cho từng công việc của trung tâm. Nhà quản trị
trung tâm chi phí này có trách nhiệm kiểm soát chi phí thực tế phát sinh sao cho phù
hợp với chi phí dự toán, đồng thời đảm bảo thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Đặc
điểm của trung tâm chi phí này là các đầu ra không thể đo lƣờng bằng các chỉ tiêu
tài chính, hoặc không có sự liên hệ rõ ràng giữa các chi phí đã đƣợc sử dụng để tạo
ra các kết quả đầu ra tƣơng ứng. Đánh giá hiệu quả của trung tâm này thƣờng bằng
7
cách so sánh chi phí giữa dự toán ngân sách đã định và thực tế thực hiện. Tuy nhiên,
cách so sánh này chỉ cho kết quả tƣơng đối, nên cần phải kết hợp một số chỉ tiêu phi
tài chính về mức độ và chất lƣợng của các dịch vụ mà các trung tâm này cung cấp.
- Trung tâm doanh thu: là trung tâm trách nhiệm mà ngƣời quản lý chỉ có
trách nhiệm với doanh thu cần tạo ra, không chịu trách nhiệm với lợi nhuận và vốn
đầu tƣ. Trung tâm doanh thu có quyền quyết định công việc bán hàng trong khung
giá cả cho phép để tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp. [4, trang 12]
Trung tâm này thƣờng đƣợc gắn với bậc quản lý cấp trung hoặc cấp cơ sở,
đó là các bộ phận kinh doanh trong đơn vị nhƣ các chi nhánh tiêu thụ, khu vực tiêu
thụ...
- Trung tâm lợi nhuận: là loại trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị phải
chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất và tiêu thụ của trung tâm. Trong trƣờng hợp
này nhà quản lý có thể ra quyết định loại sản phẩm nào cần sản xuất, sản xuất nhƣ
thế nào, mức độ chất lƣợng, giá cả, hệ thống phân phối và bán hàng. Nhà quản lý
phải quyết định các nguồn lực sản xuất đƣợc phân bổ nhƣ thế nào giữa các sản
phẩm, điều đó cũng có nghĩa là họ phải đạt đƣợc sự cân bằng trong việc phối hợp
giữa các yếu tố giá cả, sản lƣợng, chất lƣợng và chi phí. [4, trang 13]
Loại trung tâm trách nhiệm này thƣờng đƣợc gắn với bậc quản lý cấp
trung, đó là giám đốc điều hành trong công ty, các đơn vị kinh doanh trong tổng
công ty nhƣ các công ty phụ thuộc, các chi nhánh...
- Trung tâm đầu tƣ: đây là loại trung tâm trách nhiệm gắn với bậc quản lý
cấp cao nhƣ Hội đồng quản trị công ty, các công ty con độc lập,... Đó là sự tổng
quát hóa của các trung tâm lợi nhuận, trong đó khả năng sinh lời gắn với các tài sản
đƣợc sử dụng để tạo ra lợi nhuận đó. Một trung tâm trách nhiệm đƣợc xem là trung
tâm đầu tƣ khi nhà quản trị của trung tâm đó không những quản lý chi phí và doanh
thu mà còn quyết định lƣợng vốn để tiến hành quá trình đó. [4, trang 13]
8
1.4.2 Xác định các chỉ tiêu đƣợc sử dụng để đánh giá trách nhiệm quản trị
bộ phận
1.4.2.1 Quan điểm đánh giá trách nhiệm quản lý bộ phận
Để đo lƣờng đánh giá các trung tâm trách nhiệm, có hai loại chỉ tiêu cơ bản
thƣờng đƣợc sử dụng là chỉ tiêu hiệu quả và chỉ tiêu hiệu năng.
Chỉ tiêu kết quả (hiệu quả) là mức độ các trung tâm trách nhiệm thực hiện
các nhiệm vụ đề ra, có thể là số tuyệt đối hoặc tƣơng đối. Ví dụ nhƣ nhà quản lý đặt
ra doanh thu cần đạt cho trung tâm doanh thu, mức tỷ lệ hòa vốn của trung tâm lợi
nhuận, mức thực hiện thực tế so với kế hoạch của mỗi bộ phận. [4, trang 14]
Chỉ tiêu hiệu quả (hiệu năng) là tỷ lệ so sánh giữa tổng đầu ra và tổng đầu
vào của một trung tâm trách nhiệm. Nó cho thấy kết quả thực tế đạt đƣợc so với các
nguồn lực đƣợc sử dụng để tạo ra kết quả đó, có nghĩa là xác định mức trung bình
kết quả mang lại trên mỗi đơn vị đầu vào. Ví dụ nhƣ chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn,
trên tài sản. Ngƣợc lại, tỷ lệ so sánh giữa đầu vào và đầu ra cho ta trung bình số
lƣợng đầu vào tiêu hao trên mỗi đơn vị đầu ra, nhƣ tỷ lệ chi phí trên mỗi sản phẩm
làm đƣợc, chi phí vốn. [4, trang 14]
1.4.2.2 Phƣơng pháp đánh giá trách nhiệm quản trị bộ phận
Đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý cũng nhƣ việc đo lƣờng
thành quả hoạt động của các trung tâm trách nhiệm, bằng cách lấy kết quả thực hiện
của các trung tâm trách nhiệm, so sánh đối chiếu với số liệu dự toán ban đầu trên cả
hai mặt hiệu quả và hiệu năng. Do đầu ra và đầu vào của mỗi trung tâm trách nhiệm
khác nhau, vì vậy các chỉ tiêu đo lƣờng cho từng loại trung tâm cũng khác nhau.
* Đánh giá trách nhiệm quản trị và đo lƣờng kết quả hoạt động của trung
tâm chi phí:
Đối với trung tâm chi phí cần đƣợc phân biệt làm hai dạng đó là trung tâm chi
phí tiêu chuẩn và trung tâm chi phí dự toán. Thông tin chủ yếu sử dụng để đánh giá
thành quả của các nhà quản trị ở trung tâm chi phí là chi phí có thể kiểm soát bởi
từng nhà quản trị đối với bộ phận do mình phụ trách. Bằng phƣơng pháp so sánh chi
phí thực tế với chi phí dự toán, nhà quản trị có thể biết đƣợc chênh lệch nào là thuận
9
lợi, chênh lệch nào là bất lợi. Chênh lệch nào do biến động của khối lƣợng hoạt
động, chênh lệch nào do thành quả kiểm soát chi phí mang lại.
Nhà quản trị trung tâm chi phí có trách nhiệm điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh ở trung tâm sao cho đạt đƣợc kế hoạch đƣợc giao, đồng thời đảm bảo chi phí
thực tế phát sinh không vƣợt quá chi phí tiêu chuẩn (hoặc dự toán). Do vậy, khi
đánh giá trách nhiệm quản trị cũng nhƣ đo lƣờng kết quả hoạt động của loại trung
tâm này, chúng ta cần đánh giá hai chỉ tiêu cơ bản sau: [4, trang 14-15]
+ Có hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao về sản lƣợng sản xuất kinh doanh hay
không?
+ Chi phí thực tế phát sinh có vƣợt quá định mức tiêu chuẩn (hoặc dự toán) hay
không?
Trƣờng hợp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh nhƣng chi phí thực tế
vƣợt quá định mức (dự toán), thì sẽ tiến hành phân tích xác định nguyên nhân để
làm cơ sở đánh giá trách nhiệm quản trị ở từng cấp một cách chính xác hơn.
* Đánh giá trách nhiệm quản trị và đo lƣờng kết quả hoạt động của trung
tâm doanh thu:
Trách nhiệm của nhà quản trị ở trung tâm doanh thu là tổ chức tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ sao cho đạt đƣợc doanh thu trong kỳ nhiều nhất của bộ phận do mình
kiểm soát. Theo đó, chúng ta sẽ đối chiếu doanh thu thực tế đạt đƣợc so với doanh
thu dự toán của bộ phận, xem xét tình hình thực hiện dự toán tiêu thụ, trên cơ sở đó
phân tích sai biệt doanh thu do ảnh hƣởng của các nhân tố có liên quan, nhƣ đơn giá
bán, khối lƣợng tiêu thụ và cơ cấu sản phẩm tiêu thụ. [4, trang 15]
Do đầu ra của trung tâm doanh thu đƣợc lƣợng hóa bằng tiền, nhƣng đầu vào thì
trung tâm này không chịu trách nhiệm về giá thành sản phẩm hay giá vốn hàng bán.
Trong khi đó chi phí phát sinh tại trung tâm thì không thể so sánh đƣợc với doanh
thu của trung tâm, vì vậy để đo lƣờng hiệu năng hoạt động của trung tâm này,
chúng ta sẽ so sánh giữa chi phí thực tế và chi phí dự toán của trung tâm.[4, trang
15]
10
* Đánh giá trách nhiệm quản trị và đo lƣờng kết quả hoạt động của tung
tâm lợi nhuận:
Trách nhiệm của nhà quản trị ở trung tâm lợi nhuận là tổ chức hoạt động kinh
doanh sao cho lợi nhuận đạt đƣợc là cao nhất. Nhà quản trị trung tâm lợi nhuận
đƣợc giao vốn và quyền quyết định trong việc sử dụng số vốn đó để tạo ra lợi
nhuận. Do vậy, bên cạnh trách nhiệm phải tạo ra lợi nhuận cao, trung tâm lợi nhuận
còn có trách nhiệm kiểm soát chi phí phát sinh. Chính vì vậy, để đánh giá kết quả
của trung tâm lợi nhuận, chúng ta cần đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận,
giá bán và lƣợng bán. [4, trang 15-16]
+ Đối với chỉ tiêu lợi nhuận: cần xác định sai biệt giữa lợi nhuận thực hiện so
với lợi nhuận kế hoạch đƣợc giao cả về số tuyệt đối lẫn tƣơng đối.
+ Do lợi nhuận tạo ra trong kỳ của doanh nghiệp là phần còn lại của doanh thu
sau khi trừ chi phí phát sinh tƣơng ứng tạo ra doanh thu đó, nên doanh thu và chi
phí là hai nhân tố có ảnh hƣởng trực tiếp đến lợi nhuận. Để đánh giá chính xác kết
quả của trung tâm lợi nhuận, chúng ta cần xác định phạm vi chi phí mà nhà quản trị
trung tâm có thể kiểm soát đƣợc, rồi áp dụng phƣơng pháp phân tích biến động chi
phí nhƣ phƣơng pháp áp dụng ở các trung tâm chi phí. Riêng chỉ tiêu doanh thu, cần
đánh giá ở các khía cạnh sau:
Trung tâm có đạt đƣợc mức tiêu thụ dự toán không?
Trung tâm có thực hiện giá bán đúng nhƣ dự toán hay không?
Trung tâm có thực hiện cơ cấu hàng bán đúng nhƣ dự toán hay không?
Khi đánh giá chênh lệch giữa doanh thu thực hiện so với doanh thu dự toán ta
cần tiến hành phân tích xác định các nhân tố ảnh hƣởng, trên cơ sở đó xác định các
nguyên nhân chủ quan và khách quan làm biến động doanh thu. [4, trang 16]
Ngoài ra, còn có thể sử dụng các chỉ tiêu nhƣ số dƣ bộ phận, tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu, tỷ suất doanh thu trên chi phí... để đánh giá thành quả hoạt động của
các trung tâm lợi nhuận. [4, trang 16]
11
* Đánh giá trách nhiệm quản trị và đo lƣờng kết quả hoạt động của trung
tâm đầu tƣ:
Về bản chất có thể xem trung tâm đầu tƣ là một dạng mở rộng của trung tâm lợi
nhuận, trong đó nhà quản trị có nhiều quyền hạn và trách nhiệm hơn, vì ngoài việc
đƣa ra các quyết định ngắn hạn nhƣ xác định cơ cấu sản phẩm, giá bán, chi phí sản
phẩm,... họ còn có quyền kiểm soát và đƣa ra các quyết định về vốn đầu tƣ của
doanh nghiệp. Vì vậy về mặt hiệu quả hoạt động của trung tâm đầu tƣ có thể đƣợc
đo lƣờng giống nhƣ trung t