Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam chuyển
dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà nước. Đây là một bước ngoặt có tính
chất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta.
Đường lối đổi mới cơ chế quản lí kinh tế và chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần cuả Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề khách quan cho
sự khôi phục và phát triển sôi động của các thanh phần kinh tế. Trong khu vực
ngoài quốc doanh, với những ưu thế, tiềm năng sẵn có của riêng mình, các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị
trường, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu được
của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên bất kỳ một doanh nghiệp nào (dù là quốc doanh hay ngoài
quốc doanh) muốn tiến hành sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển đều
cần phải có vốn. Các thanh phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn mới được
hình thành, mặc dù các thành phần kinh tế này có rất nhiều tiềm năng để phát
triển nhưng quy mô còn nhỏ bé và không đủ vốn để tự đối đầu trực tiếp với
thương trường, phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong khu vực kinh
tế này.
Trong bối cảnh đổi mới chung của đất nước, Ngân hàng thương mại với
vai trò trung gian tài chính quan trọng của xã hội đã từng bước cải tổ hoạt động
của mình, hoà nhập với có chế mới, mở rộng cho vay đối với các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh thông qua hoạt động tín dụng. Đây không chỉ là vấn
đề thực thi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước còn là phương hướng
phát triển tín dụng của Ngân hàng trong điều kiện hiện nay. Bởi kinh tế ngoài
quốc doanh chứa đựng trong nó những nội tại tiềm năng to lớn, một khi nó được quan tâm đúng mức sẽ phát triển nhanh chóng. Chính nó trong tương lai
sẽ là thị trương tín dụng vững chắc và rộng lớn của các ngân hàng.
Gắn liền với hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh là công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh. Nhờ nghiệp vụ kế toán
cho vay Ngân hàng sẽ quản lí tốt tài sản tiền vốn của Ngân hàng trong hoạt
động kinh doanh tiền tệ. Đồng thời cũng quản lí tốt tài sản, tiền vốn của khách
hàng thông qua những số liệu ghi chép phản ánh kịp thời, chính xác.
Công tác kế toán cho vay liên quan đến nhiều hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc
doanh. Đặc biệt là kế toán cho vay ngoài quốc doanh với thao tác nghiệp vụ
chính xác, đầy đủ, nhanh gọn góp phần thực hiện nhanh chóng công tác giải
ngân, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn và tính toán được hiệu quả công
tác tín dụng của ngân hàng. Đồng thời đáp ứng đầy đủ nhu cầu thiếu vốn đầu tư
cho sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tạo một thế
phát triển mới cho thành phần kinh tế này trong công cuộc phát triển chung của
cả đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên đây và trong quá trình thực tập, tìm hiểu
nghiên cứu tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội tôi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số vấn đề về kế toán cho vay ngoài quốc
doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”
Phạm vi đề tài chủ yếu tìm hiểu tình hình kế toán cho vay ngoài quốc
doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội. Từ thực tế
đó tôi cố gắng nêu ra một số ý kiến đóng góp để nâng cao hiệu quả công tác kế
toán cho vay của ngân hàng. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức cũng như kinh
nghiệm thực tế, bản khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi
rất mong được sự giúp đỡ của các thầy cô và các bạn để bài luận văn được
hoàn thiện hơn !
73 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 2010 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: “Một số vấn đề về kế toán cho vay
ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Hà Nội”
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
1
LỜI NÓI ĐẦU
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam chuyển
dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà nước. Đây là một bước ngoặt có tính
chất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta.
Đường lối đổi mới cơ chế quản lí kinh tế và chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần cuả Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề khách quan cho
sự khôi phục và phát triển sôi động của các thanh phần kinh tế. Trong khu vực
ngoài quốc doanh, với những ưu thế, tiềm năng sẵn có của riêng mình, các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị
trường, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu được
của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên bất kỳ một doanh nghiệp nào (dù là quốc doanh hay ngoài
quốc doanh) muốn tiến hành sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển đều
cần phải có vốn. Các thanh phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn mới được
hình thành, mặc dù các thành phần kinh tế này có rất nhiều tiềm năng để phát
triển nhưng quy mô còn nhỏ bé và không đủ vốn để tự đối đầu trực tiếp với
thương trường, phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong khu vực kinh
tế này.
Trong bối cảnh đổi mới chung của đất nước, Ngân hàng thương mại với
vai trò trung gian tài chính quan trọng của xã hội đã từng bước cải tổ hoạt động
của mình, hoà nhập với có chế mới, mở rộng cho vay đối với các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh thông qua hoạt động tín dụng. Đây không chỉ là vấn
đề thực thi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước còn là phương hướng
phát triển tín dụng của Ngân hàng trong điều kiện hiện nay. Bởi kinh tế ngoài
quốc doanh chứa đựng trong nó những nội tại tiềm năng to lớn, một khi nó
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
2
được quan tâm đúng mức sẽ phát triển nhanh chóng. Chính nó trong tương lai
sẽ là thị trương tín dụng vững chắc và rộng lớn của các ngân hàng.
Gắn liền với hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh là công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh. Nhờ nghiệp vụ kế toán
cho vay Ngân hàng sẽ quản lí tốt tài sản tiền vốn của Ngân hàng trong hoạt
động kinh doanh tiền tệ. Đồng thời cũng quản lí tốt tài sản, tiền vốn của khách
hàng thông qua những số liệu ghi chép phản ánh kịp thời, chính xác.
Công tác kế toán cho vay liên quan đến nhiều hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc
doanh. Đặc biệt là kế toán cho vay ngoài quốc doanh với thao tác nghiệp vụ
chính xác, đầy đủ, nhanh gọn góp phần thực hiện nhanh chóng công tác giải
ngân, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn và tính toán được hiệu quả công
tác tín dụng của ngân hàng. Đồng thời đáp ứng đầy đủ nhu cầu thiếu vốn đầu tư
cho sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tạo một thế
phát triển mới cho thành phần kinh tế này trong công cuộc phát triển chung của
cả đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên đây và trong quá trình thực tập, tìm hiểu
nghiên cứu tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội tôi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số vấn đề về kế toán cho vay ngoài quốc
doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”
Phạm vi đề tài chủ yếu tìm hiểu tình hình kế toán cho vay ngoài quốc
doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội. Từ thực tế
đó tôi cố gắng nêu ra một số ý kiến đóng góp để nâng cao hiệu quả công tác kế
toán cho vay của ngân hàng. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức cũng như kinh
nghiệm thực tế, bản khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi
rất mong được sự giúp đỡ của các thầy cô và các bạn để bài luận văn được
hoàn thiện hơn !
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
3
CHƯƠNG I
NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ NGHIỆP
VỤ KẾ TOÁN CHO VAY
TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Sự ra đời của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hoá, sự ra
đời và vận động của tín dụng được bắt nguồn từ đặc điểm của sự chu chuyển
vốn tiền tệ và sự cần thiết sinh lợi của vốn tạm thời nhàn rỗi cũng như nhu cầu
về vốn nhưng chưa tích luỹ được, trong cùng một thời điểm đã hình thành một
quan hệ cung cầu về tiền tệ giữa một bên là người thiêú vốn (đi vay) và một
bên là người thừa vốn (cho vay)
Tín dụng có nghĩa là sự vay mượn, sự chuyển ngượng tạm thời một
lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất
định được quay trở lại với người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu (số giá trị dôi ra đó chính là lãi trong cho vay) với những điều kiện mà
hại bên đã thoả thuận với nhau.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hoạt động tín dụng không
ngừng phát triển và hoàn thiện trở thành hình thức tín dụng ngân hàng. Trong
nền kinh tế thị trường, Ngân hàng là trung gian tín dụng giữa tiết kiệm và đầu
tư, giữa người đi vay và người cho vay. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là quan hệ
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
4
tín dụng bằng tiền giữa một bên là ngân hàng-tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ với một bên là người đi vay, vừa là người cho vay.
Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng có tác động quyết định đến sự phát
triển của quá trình tái sản xuất xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất góp phần
quan trọng trọng việc phục hồi và phát triển kinh tế của các nước trên thế giới.
2. Vai trò tín dụng của Ngân hàng
Sản xuất phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển ở
mỗi quốc gia trên thế giới. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và
ngày càng hoàn thiện phải nói đến vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là
người trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt
động tín dụng đã thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu
vốn.
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy
hàng hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt
kinh tế xã hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá ra đời và được
mở rộng xã kéo theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức
kinh doanh tiền tệ đầu tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng.
Vì vậy, chúng ta thấy rằng còn tồn tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt
động tín dụng không thể mất đi mà trái lại ngày càng phát triển một cách mạnh
mẽ. Bởi trong nền kinh tế, tại một thời điểm tất yếu sẽ phát sinh hai loại nhu
cầu là người thừa vốn cho vay để hưởng lãi và người thiếu vốn đi vay để tiến
hành sản xuất kinh doanh. Hai loại nhu cầu này ngược nhau nhưng cũng chung
một đối tượng đó là tiền, chung nhau về tính tạm thời và cả hai bên đều thoả
mãn nhu cầu và đều có lợi. Ngân hàng ra đời với vai trò là nơi hiểu biết rõ nhất
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
5
về tình hình cân đối giữa cung và cầu vốn trên thị trường như thế nào.Và với
hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giải quyết được hiện tượng thừa vốn, thiếu
vốn này bằng cách huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi để phân phối lại vốn trên
nguyên tắc có hoàn trả phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh...
b. Tín dụng ngân hàng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất
được thực hiện bình thường liên tục và phát triển nhằm góp phần đẩy
nhanh quá trình tái ẩn xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng
phạm vi quy mô sản xuất
Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có
hiệu quả, động viên nhanh chóng nguồn vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn
có khác đưa vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách
kịp thời của tín dụng ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn
cố định của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên
tục tránh tình trạng ứ tắc, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn
để ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sản
xuất và tái sản xuất mở rộng từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triênr nhanh
chóng.
c. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng
cố chế độ hoạch toán kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức Ngân
hàng huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ
cần vốn để bổ xung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân
hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng,
trả nợ vay đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
6
mọi biện pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn...
để tạo điều kiện nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh
nghiệp phải tự vươn lên thông qua các hoạt động của mình, một trong những
hoạt động khá quan trọng là hạch toán kinh tế.
Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lí đồng vốn sao cho có hiệu
quả. Để quản lí đồng vốn có hiệu quả thì hạch toán tinh tế phải giám sát chặt
chẽ quá trình sử dụng vốn để nó được sử dụng đúng mục đích, tạo ra doanh lợi
cho doanh nghiệp. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng hoàn
thiện hơn quá trình hạch toán của đơn vị mình.
d. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ
kinh tế với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay
đã nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với
các nước trên thế giới.
Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh tế
chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong
đó vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng. Tín dụng ngân hàng trở thành một
trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động
tín dụng quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ
chức cá nhân với chính phủ, giữa các cá nhân với cá nhân...Sự phát triển ngày
càng tăng trong hoạt động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động
ngaỳ càng lớn làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết.
Vì vậy việc tạo điều kiện thuận lợi về tài chính là một công cụ cạnh tranh có
hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác như giá cả, chất lượng sản phẩm,
dịch vụ, thương mại... đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước ra phạm vi của
thế giới có tác dụng thúc đẩy nền sản xuất mang tính quốc tế hoá, hình thành
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
7
thị trường khu vực và thị trường thế giới, tạo ra bước phát triển mới trong quan
hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với nhau. Như vậy các hình thực thanh
toán cũng sẽ đa dạng hơn như thanh toán qua mạng SWIFT, thanh toán LC...
mỗi hình thực thanh toán đòi hỏi hình thức tín dụng phù hợp và đảm bảo cho
nó an toàn và hiệu quả. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại thương là cơ
sở để tạo lòng tin cho bạn hàng trong thương mại, tạo điều kiện cho quá trình
lưu thông hàng hoá, thắng trong cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn tới thắng lợi
của mọi cạnh tranh khác trọng hoạt động ngoại thương.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH.
1. Đặc điểm của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc thù riêng cụ thể:
Thứ nhất: Ở nước ta hiện nay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
hầu hết là các đơn vị trẻ, ngành nghề kinh doanh phong phú dễ tiếp nhận và
nhạy bén với kỹ thuật mới. Do vậy nó cần phải được phát triển và giữ một vị trí
quan trọng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta.
Thứ hai: Với thị trường lao động lớn, giá nhân công rẻ mạt, do vậy các
thành phần kinh tế này rất có lợi thế về kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản
xuất của người lao động, nó thừa hưởng thành quả và sự phù hợp với xu thế
phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới và chủ trương đổi mới có cấu
kinh tế ơ nước ta.
Thứ ba: Việc sắp xếp lại các dịch vụ nhà nước đã chuyển dịch một tỷ lệ
đáng kể “chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. hơn thế nữa,
nội lực năng động trong phương thức phân phối thu nhập sẽ tạo kênh dòng
chảy các cán bộ quản lí giỏi, lao động kỹ thuật cao từ các doanh nghiệp nhà
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
8
nước về các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Nó tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế này phát triển.
Thứ tư: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mục đích cuối cùng là
lợi nhuận. Nhưng thành phần này mang tính chất “tự thân vận động”. Do vậy
mục đích của nó là cạnh tranh có hiệu quả để đạt được lợi nhuận cao bằng mọi
thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có tính sở hữu, tư
hữu hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với người sản xuất, bộ máy gọn nhẹ,
năng động.
Qua các đặc điểm của nền kinh tế ngoài quốc doanh ta thấy nó rất phù
hợp với sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Nếu nhà nước có một chính
sách và một môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển thì họ
đóng góp một tỷ trọng đáng kể cho tăng trưởng GDP trong cả nước, tạo công
ăn việc làm cho người lao động góp phần giảm tệ nạn xã hội trong nền kinh tế.
2. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh:
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng với các đường lối đổi mới đúng đắn
kịp thời các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã có chỗ đứng bình đẳng so
với kinh tế quốc doanh. Do vậy nó đã và đang phát huy thế mạnh sẵn có để góp
phần phát triển nền kinh tế đất nước. Vị trí quan trọng của nó đã được khẳng
định trong cơ cấu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nưóc ta hiện nay. Vai
trò của nó được thể hiện ở các mặt cụ thể sau:
a. Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang đóng góp cho nền kinh tế một khối
lượng sản phẩm hàng hoá lớn, đa dạng phong phú, chất lượng cao, tạo quỹ tiêu
dùng và xuất khẩu. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc
doanh đã và đang có nhiều đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước, góp
phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá cho các địa phương trong cả nước mà đồng
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
9
thời còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho
đất nước.
b. Kinh tế ngoài quốc doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất và đối thủ
cạnh tranh với thành phần kinh tế quốc doanh, giúp cho sự phát triển của nền
kinh tế ngày càng sôi động.
Kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc điểm về tính sở hữu cao, bộ máy
sản xuất kinh doanh rất năng động, nhạy bén, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn
liền với người sản xuất, hộ đều có mục đích vì quyền lợi của chính cá nhân
mình, của gia đình, của người thân, đó là điều kiện giúp cho kinh tế ngoài quốc
doanh phát huy được mọi tiềm năng. Mặt khác nền kinh tế thị trường sẽ hoạt
động có hiệu quả mang lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng và cho xã hội
khi và chỉ khi có cạnh tranh. Có cạnh tranh thì người sản xuất mới chú trọng
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn để làm thế nào sản phẩm mình sản xuất
ra được thị trường chấp nhận và tiêu thụ được. Với đặc điểm của kinh tế ngoài
quốc doanh đã tạo điều kiện để kinh tế ngoài quốc doanh tiết kiệm chi phí sản
xuất, tìm kiếm mặt hàng mới, khai thác thị trường mới, nhanh nhay xoau
chuyển tình thế kịp thời phù hợp với nhu cầu thị trường, đưa ra những sản
phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lí.
c. Kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà
nước.
Hiện ngay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp đáng kể vào ngân sách
Nhà nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu xã hội ngày càng
tăng lên. Để đáp ứng được nhu cầu xã hội về phía các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh họ luôn phải tăng cường mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
và cũng là để tăng nguồn thu cho chính các đơn vị và nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước.
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
10
d. Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang giải quyết một số vấn đề nan
giải , đó là vấn đề về công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Từ đó ta thấy rằng: Sự phát triển
của kinh tế ngoài quốc doanh là một giải pháp hữu hiệu cho việc giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc
doanh
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh cho thấy
khu vực kinh tế này có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên để phát huy tính năng
động trong kinh doanh, khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế
này Nhà nước cần hỗ trợ cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh.
Một giải pháp hữu hiệu nhất đó là đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này
thông qua kênh tín dụng ngân hàng. Từ đó đã khẳng định vai trò của tín dụng ngân
hàng trong việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
a.Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh theo mục tiêu phát triển của đất nước.
Bất kì một đơn vị nào để tiến hành sản xuất kinh doanh được thì cũng
cần phải có vốn, và cũng vậy đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
ra đời và phát triển thực hiện quá tình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng cũng
cần có một nguồn vốn đủ để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và các
chi phí khác. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức để
cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường và để phân tán những rủi
ro trong kinh doanh. Các thành phần kinh tế này phải huy động thêm từ bên
ngoài, nguồn vốn quan trọng nhất để bổ xung vốn cố định và vốn lưu động cho
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đó là nguồn vốn tín dụng từ các ngân
hàng thương mại.
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
11
b. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh
tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng thực hiện quá trình tái sản
xuất mở rộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật .. thông qua các khoản tín dụng
ngân hàng thương mại.
Như vậy tín dụng trở thành người trợ thủ đắc lực cho các đơn vị này
trong việc thoả mãn cơ hội kinh doanh. Khi có có hội kinh doanh, các đơn vị
này cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị
trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn thì ngân hàng sẽ cho vay. Nguồn
này ngân hàng huy động từ nhiều nơi khác nhau như huy động từ dân cư, các
tổ chức kinh tế trong nước, nước ngoài...
c. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng
thu nhập, thực hiện mục tiêu của chính phủ là phát triển kinh tế đa thành phần
phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt được mục tiêu đổi mới cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần đưa nền kinh tế nước ta
lên một vị trí mới. Đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để giúp đỡ các đơn vị có
điều kiện thuận lợi mở rộng sản xuất kinh doanh để theo kịp hoà nhập vào nền
kinh tế thế giới.
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Như
Quỳnh - TCNH 1
Trang
12
III. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN CHO VAY.
1. Vai trò nhiệm vụ của kế toán ngân hàng.
1.1 Vai trò của kế toán ngân hàng