Quốc sử ghi chép việc chung của đất nước của dân tộc từ khi thành lập Nước.
Gia phả ghi chép việc riêng của một gia đình, một họ tộc từ khi hình thành đến các thế
hệ đương thời.
Gia phải chi họ nhà ta từ trước đến giờ chỉ có một cuốn gọi là "Đào môn gia
phả diễn lục" do cụ Đào Văn Thư biên soạn bằng chữ nho ghi chép được năm đời, rồi
đọc cho ông Đài là con trai cụ Thư, chép lại bằng chữ quốc ngữ năm 1940 - cùng thời
gian ông Đào Văn Thái là con trai cụ Đào Văn Nguyên em họ cụ Thư (chung ông nội)
có sao chép lại bản chữ quốc ngữ đó. Do hoàn cảnh chiến tranh từ năm 1948 gia đình cụ
Thư phải sơ tán sang xã Hồng Châu (Tràng Lan cũ) huyện Yên Lạc rồi mỗi người đi
một nơi làm ăn hoặc công tác kháng chiến. Mãi đến năm 1996 ông Đài mới tìm lại được
cuốn gia phả chữ quốc ngữ chép tay ấy tại nhà ông Đọn ở xã Hồng Châu và một bản sơ
đồ phả hệ bằng chữ nho do cụ Thư vẽ năm 1943 (năm Quý mùi). Ông Đài đã phôtô
nguyên bản cuốn "Đào môn gia phả diễn lục" đó gửi đến các ông con trai và cháu trai
nội của cụ Thư.
Nay thể theo nguyện vọng của mọi thành viên trong đại gia đình chi họ cụ Thư
nhà ta cần có một cuốn gia phả hoàn chỉnh viết đến tận đời nay để con cháu sau này biết
rõ được nguồn gốc dòng họ, tổ tiên và hệ thống chi họ nhà mình, biết được công lao
thành tích của các đời tích lũy nên và được phát triển tới ngày nay, biết được chính xác
những ngày giỗ, những phần mộ của tổ tiên ông cha, cuốn gia phả này được soạn thảo
dựa vào cuốn "Đào môn gia phả diễn lục" của cụ Thư trước, có sắp xếp lại hệ thống các
đời từ cụ cao cao tổ là Đào Phúc Tô làm đời thứ nhất, đồng thời soạn thảo tiếp từ đời
thứ 5 đến nay - trong đó ghi chép được rõ ràng về tiểu sử các thành viên của từng thế hệ
- thành một cuốn gia phả thống nhất vẫn lấy tên là "Đào môn gia phả".
Tuy đã cố gắng sưu tầm tham khảo, do hoàn cảnh cụ thể của chi họ ta, khi viết
soạn thảo này vẫn chưa thu thập được đầy đủ những sự kiện lịch sử cụ thể và phong
phú, đồng thời các số, dữ liệu ghi chép chỉ biết được trong phạm vi nhất định về thời
gian khoảng trên dưới một trăm năm trở lại đây, và về chi họ của cụ Thư là chủ yếu còn
các chi nhánh liên quan, ngành trê, ngành dưới, thì hiểu biết được rất ít. Song cũng
thống kê được 9 đời hậu duệ tính từ đời cụ cao cao tổ Đào Phúc Tô đến nay, biết được
tên tuổi và sự nghiệp của ông cha ta đã vượt bao khó khăn vất vả, bền bỉ phấn đấu cho
cuộc sống và sự sinh tồn, phát triển từ những cơ sở nghèo nàn lạc hậu để rồi cho chúng
ta ngày nay được thừa hưởng những kinh nghiệm quý báu, những truyền thống tốt đẹp,
tiếng thơm được lưu truyền mãi về sau. Hy vọng các thế hệ sau sẽ viết tiếp cuốn gia phả
này bằng những trang sử vẻ vang của gia đình từng thành viên để chi họ Đào của cụ
Thư mãi mãi trường tồn và vinh quang muôn thuở.
131 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhà có gia phả như Nước có Quốc Sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nhà có gia phả như Nước có quốc sử
Lời nói đầu
Quốc sử ghi chép việc chung của đất nước của dân tộc từ khi thành lập Nước.
Gia phả ghi chép việc riêng của một gia đình, một họ tộc từ khi hình thành đến các thế
hệ đương thời.
Gia phải chi họ nhà ta từ trước đến giờ chỉ có một cuốn gọi là "Đào môn gia
phả diễn lục" do cụ Đào Văn Thư biên soạn bằng chữ nho ghi chép được năm đời, rồi
đọc cho ông Đài là con trai cụ Thư, chép lại bằng chữ quốc ngữ năm 1940 - cùng thời
gian ông Đào Văn Thái là con trai cụ Đào Văn Nguyên em họ cụ Thư (chung ông nội)
có sao chép lại bản chữ quốc ngữ đó. Do hoàn cảnh chiến tranh từ năm 1948 gia đình cụ
Thư phải sơ tán sang xã Hồng Châu (Tràng Lan cũ) huyện Yên Lạc rồi mỗi người đi
một nơi làm ăn hoặc công tác kháng chiến. Mãi đến năm 1996 ông Đài mới tìm lại được
cuốn gia phả chữ quốc ngữ chép tay ấy tại nhà ông Đọn ở xã Hồng Châu và một bản sơ
đồ phả hệ bằng chữ nho do cụ Thư vẽ năm 1943 (năm Quý mùi). Ông Đài đã phôtô
nguyên bản cuốn "Đào môn gia phả diễn lục" đó gửi đến các ông con trai và cháu trai
nội của cụ Thư.
Nay thể theo nguyện vọng của mọi thành viên trong đại gia đình chi họ cụ Thư
nhà ta cần có một cuốn gia phả hoàn chỉnh viết đến tận đời nay để con cháu sau này biết
rõ được nguồn gốc dòng họ, tổ tiên và hệ thống chi họ nhà mình, biết được công lao
thành tích của các đời tích lũy nên và được phát triển tới ngày nay, biết được chính xác
những ngày giỗ, những phần mộ của tổ tiên ông cha, cuốn gia phả này được soạn thảo
dựa vào cuốn "Đào môn gia phả diễn lục" của cụ Thư trước, có sắp xếp lại hệ thống các
đời từ cụ cao cao tổ là Đào Phúc Tô làm đời thứ nhất, đồng thời soạn thảo tiếp từ đời
thứ 5 đến nay - trong đó ghi chép được rõ ràng về tiểu sử các thành viên của từng thế hệ
- thành một cuốn gia phả thống nhất vẫn lấy tên là "Đào môn gia phả".
Tuy đã cố gắng sưu tầm tham khảo, do hoàn cảnh cụ thể của chi họ ta, khi viết
soạn thảo này vẫn chưa thu thập được đầy đủ những sự kiện lịch sử cụ thể và phong
phú, đồng thời các số, dữ liệu ghi chép chỉ biết được trong phạm vi nhất định về thời
gian khoảng trên dưới một trăm năm trở lại đây, và về chi họ của cụ Thư là chủ yếu còn
các chi nhánh liên quan, ngành trê, ngành dưới, thì hiểu biết được rất ít. Song cũng
thống kê được 9 đời hậu duệ tính từ đời cụ cao cao tổ Đào Phúc Tô đến nay, biết được
tên tuổi và sự nghiệp của ông cha ta đã vượt bao khó khăn vất vả, bền bỉ phấn đấu cho
cuộc sống và sự sinh tồn, phát triển từ những cơ sở nghèo nàn lạc hậu để rồi cho chúng
ta ngày nay được thừa hưởng những kinh nghiệm quý báu, những truyền thống tốt đẹp,
tiếng thơm được lưu truyền mãi về sau. Hy vọng các thế hệ sau sẽ viết tiếp cuốn gia phả
này bằng những trang sử vẻ vang của gia đình từng thành viên để chi họ Đào của cụ
Thư mãi mãi trường tồn và vinh quang muôn thuở.
Phần một
Mảnh đất quê hương
và
Thủy tổ họ Đào
I. Mảnh đất quê hương
1. Vị trí địa lý
Gia đình chi họ Đào chúng ta nếu chỉ tính riêng từ đời cụ Thư đến nay đã được
năm đời rồi. Bây giờ thế hệ các cháu nội của cụ và một phần lớn các cháu ngoại, đã làm
ăn sinh sống nơi khác, không cùng ở quê hương bản quán nữa. Song tìm hiểu lại mảnh
đất quê hương thiêng liêng mà các bậc tổ tiên họ ta đã sinh có lập nghiệp cũng như về
dòng họ Đào chúng ta cội nguồn từ đâu, biết được đến đâu, chẳng phải là có ý nghĩa
biết ơn tổ tiên và để phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ mà gia đình chúng ta
đang được thừa kế đó sao?
Tên xã Vân Nam hiện nay quê hương gốc của họ Đào chúng ta chính là xã Vân
Cốc xưa kia nằm trên bờ phải sông Hồng cách Hà Nội khoảng 30km và cách thị xã Sơn
Tây 12km. Tên Vân Cốc có từ lâu đời lắm. Địa danh Vân Cốc hiện nay không còn trên
bản đồ địa bạ hành chính nhưng vẫn còn lưu truyền trong ký ức dân gian để gọi theo
thói quen truyền lại những địa danh cũ quê ta từ bao đời nay như làng Cốc, chợ Cốc,
bến Cốc, trường Cốc, chùa Cốc, Đình Cốc v.v... Ngược dòng lịch sử nghiên cứu, qua
tham khảo thần phả của Đình Vân Cốc cũ, tham khảo cuốn lịch sử truyền thống đấu
tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vân Cốc thời kỳ kháng chiến chống Pháp
1945 - 1954, cũng như theo ý kiến truyền lời từ đời các cụ ở quê ta để lại thì Vân Cốc ta
có lịch sử từ khoảng đầu công nguyên hoặc trước công nguyên một ít. Hồi xa xưa ấy
vùng ven sông Hồng bãi bồi phù xa mênh mông lau sậy um tùm, không có dân cư. Sau
có 12 gia đình từ vùng Nga Sơn, Thanh Hóa chuyển tới đầm Dưng (nay thuộc huyện
Yên Lạc, Vĩnh Yên) làm nơi cư trú sinh sống khai thác trồng trọt làm ăn. Đó chính là
mười hai dòng họ đầu tiên của xã gồm họ Đặng, Đào, Bùi, Doãn, Hoàng, Đoàn, Phùng,
Trần, Vũ, Đỗ, Cao, Nguyễn. Cuộc sống sinh sôi dân số ngày một đông lập thành
phường Vân Thủy thuộc Tổng Nhật chiêu, huyện Bạch Hạc, Phủ Vĩnh, Tường Trân,
Sơn Tây. Lâu dần phường Vân Thủy phát triển thành hai nơi gọi là Vân Thủy thượng và
Vân Thủy hạ và sau lại đổi là xã Vân Cốc. Do ảnh hưởng của dòng chảy sông Hồng
hàng năm mùa nước lũ làm lở đất hai ven bờ đồng thời hình thành bãi nổi mới giữa
sông mỗi năm một ít (lở bên này, bồi bên kia). Đến năm tự Đức thứ 3 (năm Mậu dần
1878) đất Vân Cốc bị lở nhiều, nhân dân Vân Cốc chuyển dần sang phiến bãi tân bồi bờ
Nam sông Hồng (hữu ngạn) khai phá làm ăn, mới đầu đặt tên là Vân Cốc thượng, rồi
thêm Vân Cốc hạ thành tổng Vân Cốc. Đến năm Thành Thái thứ 12 (Canh tý 1900) Vân
Cốc chia làm 8 xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Lộc, Vĩnh Thuận, Vĩnh Khang, Vĩnh
Ninh, Tràng Lan, Hưu Chưng.
Đến năm Thành Thái thứ 19 (1907), chính quyền Pháp tách xã Tràng Lan phía
tả ngạn sông Hồng thuộc tổng Lưỡng quán (nay là xã Hồng Châu) huyện Yên Lạc, Vĩnh
Phúc, đồng thời tách xã Hưu Chưng về bờ Nam sông Hát, thuộc tổng Thọ Lão, huyện
Đan Phượng, tỉnh Hà Đông (nay là xã Trung Châu). Còn lại 6 xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ,
Vĩnh Khang, Vĩnh Thuận, Vĩnh Lộc, Vĩnh Ninh, thành tổng Vĩnh Phúc thuộc huyện
Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.
Năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công chính quyền về tay nhân dân ta,
tổng Vĩnh Phúc đổi tên thành xã Vân Cốc như xưa.
Đến năm 1955, sau cải cách ruộng đất, xã Vân Cốc lại được chia thành 3 xã tên
mới như hiện nay: xã Vân Nam gồm thôn Vĩnh Khang, thôn Vĩnh Thuận và thôn Vĩnh
Lộc.
Xã Vân Phúc gồm: thôn Vĩnh Thọ, thôn Vĩnh Phúc.
Xã Vân Hà gồm: thôn Vĩnh Ninh và 1 xóm mới gọi là Việt Tân gồm các ngư
dân vạn Hát lên định cư làm ruộng, và một số hộ dân ở bãi nổi giữa sông.
Qua những đổi thay như trên chúng ta thêm hiểu được ở xã Hồng Châu huyện
Yên Lạc bây giờ, cũng như ở xã Trung Châu thuộc huyện Đan Phượng, bây giờ và
trước đây có anh em bà con họ hàng cùng dòng họ với chúng ta ở bên xã Vân Nam
thuộc Sơn Tây là như thế. Tuy là 8 xã cũ thuộc 3 tỉnh, nhưng vẫn cùng 12 chi họ cùng
một giọng nói giống nhau và nhiều tập quán cũ giống nhau.
2. Tình hình xã Vân Cốc trong thời kỳ Pháp thuộc
Diện tích xã Vân Cốc khoảng 16 km2 dân số 11.000 người sống ở hai bên bờ
sông Hồng. Ruộng đất được chia theo suất đinh cho nam giới từ 18 tuổi trở lên, bình
quân ở Vĩnh Khang là 4 sào/người - sống của mình chết trả làng - chu kỳ 3 năm chia lại
một lần, không ai có ruộng tư điền. Đời sống kinh tế dựa vào trồng trọt ngô khoai là
chính, lúa chỉ cấy được khi nước lụt cạn rút khỏi bãi, nhưng dễ bị mất ăn vì nếu nước lại
lên trở lại ngập hỏng lúa. Bọn cường hào tổng lý địa chủ chiếm hết ruộng đất tốt, đa số
dân nghèo túng phải đi làm thuê làm mướn nơi khác kiếm ăn thêm. Những hủ tục, ma
chay, cưới xin, khoa cử mua ngôi bán chức, tệ cờ bạc rượu chè thuốc phiện càng đẩy
người dân vào con đường bần cùng hóa, nhiều gia đình phải tha phương cầu thực, lên
rừng hoặc vào các đồn điền của Pháp làm phu kiếm sống. (Ví dụ: ông Doãn Văn Tý là
con rể cụ Ngãi (em gái cụ Thư) phải rời cư lên ấm Thượng Hạ Hòa, Phú Thọ từ lúc tuổi
thanh niên đến nay. Đã mất tháng 02-2003 (Quý Mùi), thọ: 104 tuổi.
Chính sách ngu dân của thực dân Pháp làm cho hơn 90% dân số mù chữ dốt
nát. Mãi đến năm 1930 mới có một trường tiểu học được xây dựng ở làng Vĩnh Thọ, có
3 thầy giáo được bổ nhiệm về dạy. Trường này thu nạp học sinh của các xã vùng bãi
huyện Phúc Thọ, có 6 lớp từ lớp Đồng ấu (vỡ lòng) đến lớp nhất (cours supérieur). Tuy
vậy số người đi học hầu như chỉ con trai và rất ít, mỗi lớp trên dưới 20 học sinh, lên đến
lớp nhì và lớp nhất chỉ còn khoảng 10 người, và thi tốt nghiệp chỉ đỗ được sấp sỉ 70%. ở
mỗi làng còn có một trường hương sư dạy một lớp từ vỡ lòng đến lớp 1,2 (kiểu như
trường dân lập, thầy giáo có bằng tốt nghiệp tiểu học do huyện quản lý). Ngoài việc học
chữ quốc ngữ vẫn còn một số ít người học chữ nho lẻ tẻ ở các làng do các ông đồ, ông
tú dạy tại nhà. Người dân Vân Cốc vốn hiếu học từ xưa. Thời vua Tự Đức có cụ nghè
Đặng Văn Bảng ở Vĩnh Thọ đỗ tiến sĩ. Cụ Phùng Hữu Tài ở Vĩnh Thuận đỗ phó bảng.
Thủ khoa cử nhân có cụ Phùng Khắc Nhuận ở Vĩnh Thuận và 5 người đỗ tú tài. ở Vĩnh
Khang có cụ Bùi Văn Lục tú tài gọi là cụ kép (cụ Hàn). Chính sách cai trị bần cùng hóa
nhân dân của thực dân Pháp làm dân quê ta khó có điều kiện học hành đỗ đạt cao được.
Đến 1945 có thể đếm được trên đầu ngón tay vài chục người có bằng tốt nghiệp tiểu
học, còn số người đỗ thành chung (tốt nghiệp trung học) càng rất hiếm khoảng 3 đến 4
người.
Về tôn giáo: Tại Vĩnh Thọ có một nhà thờ Thiên chúa giáo được xây dựng năm
1920 và hình thành 1 xóm giáo riêng của những người theo đạo. Mâu thuẫn lương giáo
cũng phát sinh từ đó.
Một ngôi chùa lớn thờ Phật có từ lâu (đời Lê Trịnh) (1620) ở gần chợ Bãi, ngôi
chùa cổ có 124 pho tượng phật, có gác chuông tam quan ngay cổng vào, trên treo 1
chuông và 1 khánh bằng đồng to. Ngoài ra còn 1 ngôi đình lớn, cột 1 người ôm, sơn son
thếp vàng, có đại bái, trung đường và hậu cung uy nghi.
Cách đình khoảng 500m về phía Tây Bắc, bên cạnh trường tiểu học còn có một
nhà văn miếu dựng trên nền cao 9 bệ đi lên, hai bên có 2 dãy tả, hữu mạc, kiểu cung
điện. Đình và miếu này là nơi thờ thành Hoàng của xã Vân Cốc.
Đình, Miếu, Chùa, Trường tiểu học hình thành một cụm quần thể di tích văn
hóa đẹp, trừ trường học xây kiểu mới có cửa kính, cửa chớp, còn các Đình, Miếu, Chùa
xây dựng kiểu kiến trúc cổ mái cong lợp ngói âm dương cổ, nền cao, trước cửa từng
khuôn viên là 2 cây cột trụ cao, trên đắp rồng phượng. Những cây gạo và cây đa cổ thụ
cành lá xum xuê trồng xung quanh; làm tăng vẻ đẹp oai linh, nhất là về mùa lễ hội rước
thần, tháng giêng và tháng hai âm lịch hàng năm 1 lá cờ đại được kéo cao ngang ngọn
cây, dân chúng nô nức xem hội, vui chơi.
Sự tích Thành Hoàng:
Theo Thần phả Đình xã Vân Cốc, năm 40 -43 sau Công nguyên, ở xã Vân Thủy
(Tên Vân Cốc xưa) có hai chị em ruột là Phùng ả Tú và Phùng ả Huyền, con ông Phùng
Liệt và bà Phạm Thị Dân đã cùng với em con bà di là Hoàng thượng Cát (con ông
Hoàng Xuân Hy và bà Phan Thị Chi) ở xã Nhật Chiêu, tổ chức một đội nghĩa binh
hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tham gia chiến đấu chống quân Tô Định,
Đông Hán, lập được nhiều chiến công. Ba bà đóng quân tại cử sông Hát giang tiền đồn
bảo vệ Mê Linh, kinh đô nước Việt hồi đó. Ba bà là các nguyên huân được Trưng Nữ
vương phong tướng. Ba Bà đã chiến đấu đến cùng chống quân Mã Viện, góp phần bảo
vệ giang sơn đất nước và đều hy sinh anh dũng ngày 11/3 âm lịch (năm 044), thương
tiếc và tưởng nhớ đến công ơn ba bà nhân dân xã Vân Thủy đã lập đền thờ và tôn làm
Thành Hoàng làng. Đình và Miếu nói trên là nơi thờ ba Bà đã được các triều đại từ đời
vua Đinh Tiên Hoàng đến triều đại nhà Nguyễn sau này phong sắc là "Thượng đẳng
Thần", Thành Hoàng của xã Vân Cốc.
Năm 1947, theo lệnh tiên thổ kháng chiến chống Pháp ta đã phá dỡ bỏ tất cả các
đình chùa, miếu, trường học. Bây giờ mới trùng tu lại các di tích ấy nhưng chưa thể
phục chế lại như cũ được.
Truyền thống và con người
Người dân Vân Cốc kể từ thuở sinh cơ lập nghiệp khai phá đất hoang xây dựng
làng quê, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt: bão, lụt, lở, bồi, luôn luôn tỏ ra cần cù
lao động cũng cảm thông minh đoàn kết tương trợ. Mọi người trong làng xóm sống hòa
thuận thương yêu đùm bọc giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn. Một cộng đồng dân cư
mấy nghìn năm vẫn giữ được phong tục tập quán giống nhau, giọng nói giống nhau,
sinh hoạt giống nhau mặc dù địa dư làng xã nhiều lần bị thay đổi, tách, nhập, chia cắt,
đó là điều tật vô cùng quý báu. Nói về lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh chống ngoại
xâm thì nhân dân Vân Cốc luôn tự hào về truyền thống cách mạng và lòng dũng cảm
bảo vệ quê hương, tổ quốc. Lịch sử xưa xưa đã ghi công ba Bà Thành Hoàng xã ta là nữ
tướng của Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán.Từ thời kỳ Pháp xâm lược vào những
năm 1885 trở về sau, có nhiều người nổi dậy chống Pháp như cụ NguyễnTân và con là
Nguyễn Thế ở Vĩnh Khang (họ hàng nhà Đức Hợi, con rể ông bà Đường) cùng với Đốc
Ngữ lập căn cứ chống Pháp trên sông Đà. Cụ Phùng Khắc Nhuận quê ở làng Vĩnh
Thuận làm tri huyện Thanh Ba, Phú Thọ đã tham gia khởi nghĩa phong trào Cần Vương
bị thực dân Pháp bắt được mang về quê Vân Cốc chém bêu đầu treo lên ngọn tre để uy
hiếp tinh thần cách mạng của dân ta. Ba con của cụ là Phùng Khắc Thân và Phùng Khắc
Vịnh tiếp tục tham gia khởi nghĩa của Đội Cấn năm 1917. Con gái cụ là Phùng Thị Ngoạn
(vợ Đội Cấn) làm trưởng ban quân lương của khởi nghĩa Thái Nguyên.
Kể từ 1945 đến nay, xã Vân Cốc không những đã anh dũng chiến đấu bảo vệ
quê hương đánh bại những cuộc càn quét của giặc Pháp mà còn chi viện sức người sức
của rất lớn cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nghĩa trang liệt sĩ
của xã Vân Cốc trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hiện nay đã
quy tụ trên 600 mộ liệt sĩ đủ nói lên tinh thần yêu nước hy sinh vô bờ bến của dân quê ta
như thế nào! Cụ Thư của đại gia đình chúng ta cũng có một cháu nội là liệt sĩ chống Mỹ
(Đào Văn Mẫn) và một cháu ngoại là liệt sĩ chống Pháp (Đặng Sơn Thạch) đặt trong
nghĩa trang này.
3. Tình hình quê ta sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
Xã Vân Nam cũng như các xã thuộc Vân Cốc cũ, từ 1945 trở lại đây đã có
nhiều đổi thay đáng kể.
Về kinh tế đời sống khác hẳn xưa. Ngoài nghề nông đã có thêm nghề phụ khác.
Bây giờ ngô khoai dùng để chăn nuôi, người có cơm ăn, không phải đói nữa. Trường
học có từ nhà trẻ mẫu giáo đến cấp 1, 2. Một phân hiệu trường cấp 3 cũng ở ngay gờ đê
giữa Vĩnh Khang và Vĩnh Thọ. Toàn dân đã phổ cập tiểu học. Số người có bằng tú tài
trở lên có thể tính con số hàng trăm rồi. Riêng trong gia đình con cháu cụ Thư có bằng
Đại học hiện nay cũng đã khoảng ba chục.
Bộ mặt nông thôn Vân Cốc khác trước nhiều. Đường xá đắp cao ít lầy lội, ven
sông nổi lên một bãi cát hàng năm cao dần, bờ sông không lở nữa. Nhân dân đắp dọc bờ
sông 1 kiểu đê bối (gọi là đập, tiếng địa phương) giữ nước sông Hồng được đến báo
động cấp 3 chưa tràn, làm cho tương đối ổn định việc sản xuất trồng lúa, ngô đến năm
1965 - 1966, nhà nước cho đắp một con đê lớn nối đê Đại Hà từ Cẩm Đình dọc xuống
giữa xã Vân Phúc nối tiếp gặp đê lớn Hát Môn xây cống lớn gọi là cống Ba Xuân nhằm
mở phân lũ sông Hồng khi cần thiết. Hiện nay con đê được cấp phối rải đá đổ nhựa
thành đường giao thông thuận tiện. Mấy năm nay đường điện cũng đã về đến từng nhà
các xã ven sông, vùng bãi, khu chợ Bãi xưa lều tranh vách nứa nay đã xây quán bán
hàng. Cạnh chợ có cửa hàng mậu dịch, có bưu điện văn hóa, có phân viện của bệnh viện
huyện. Nhà 2 tầng và 3 tầng của dân cũng đã dần mọc lên hình thành một thị tứ mới,
đông vui nhộn nhịp. Cuộc sống của dân Vân Cốc đã thực sự đổi đời từ đây.
II. Thủy tổ họ đào là ai? Việc giỗ tổ ở quê từ trước đến nay
Theo lịch sử của xã Vân Cốc thì họ Đào là một trong 12 họ từ Nga Sơn, Thanh
Hóa ra từ hồi đầu công nguyên đến khai thác vùng Đầm Dưng làm ăn sinh sống hình
thành xã Vân Thủy sau đổi là Vân Cốc đến ngày nay. Theo tục lệ ở quê ta từ trước đến
giờ họ Đào thực hiện giỗ tổ vào ngày 15 tháng chạp (giỗ tổ Ông) và 15 tháng 4 âm lịch
(giỗ tổ Bà). Hiện nay lễ giỗ được tổ chức tại nhà ông Sơn, thôn Vĩnh Khang, xã Vân
Nam. Bài văn khấn giỗ tổ còn truyền lại đến nay có ghi tên húy cụ Thủy Tổ là Đào Huy
Từ quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông Thông người đọc văn khấn trong các lần lễ giỗ có
nói là cụ Thủy Tổ từ Thanh Hóa ra đây khoảng 300 năm đời Hậu Lê. Nếu vậy cụ Thủy
Tổ Đào Huy Từ không phải là người trong 12 họ từ Nga Sơn, Thanh Hóa ra hồi đầu
công nguyên? Và đây là vấn đề cần sưu tầm nghiên cứu thêm.
Hiện nay chưa sưu tầm được tộc phả họ Đào hoặc gia phả các chi họ Đào để
nghiên cứu mối liên quan giữa các thế hệ họ Đào, ở quê hương Vân Cốc ta từ xưa đến
giờ? Chi trên chi dưới trong họ ra sao?
Cụ Đào Văn Thư có kể lại rằng họ Đào trong xã ta ít người, họ nhỏ không làm
được nhà thờ riêng như họ Đặng, họ Bùi. Cho nên đến ngày giỗ Tổ tập trung làm lễ giỗ
tại nhà ông tộc biểu kiêm trưởng họ. Chức trưởng họ đây không nhất thiết phải là hệ
trưởng của dòng họ mà là người của cộng đồng dân cư 1 họ trong địa phương cử ra đại
diện họ về mặt tổ chức hành chính trong làng được gọi là tộc biểu. Làng ngày xưa gọi là
xã, bây giờ gọi là thôn như quê là thôn Vĩnh Khang, ngày xưa là xã (làng) Vĩnh Khang,
đứng đầu là một lý trưởng có 1 đến 2 chức phó lý giúp việc.
Ruộng đất của làng (xã) được chia cho các biểu. Mỗi họ là 1 biểu tùy theo suất
đinh nhiều hay ít để nhận ruộng đất. Người tộc biểu phải là người biết chữ, có năng lực
và trình độ quản lý đất đai, thực hiện luật lệ ruộng đất trong họ theo hương ước của
làng, đôn đốc thuế má và thực hiện điều chỉnh kế hoạch đất canh tác và thổ cư trong họ
đối với kế hoạch của làng. Trong thời kỳ Pháp thuộc, tộc biểu họ Đào trước kia là cụ
Đào Văn Kính sau đến cụ Đào Văn Thư nhà ta. Khoảng năm 1935, cụ Thư nghỉ tộc
biểu họ cử ông Đào Van Chính (con trai cụ Kính và bà ông nội ông Sơn bây giờ).
Sau khi cải cách ruộng đất 1955 - 1956, đất ruộng không quản lý theo biểu họ
nữa, mà chia đều toàn xã (thôn Vĩnh Khang) bình quân cả nam nữ chia theo nhân khẩu
vĩnh viễn, bỏ chế độ tộc biểu rồi dần dần tổ chức hợp tác xã nông nghiệp. Tuy vậy việc
giỗ tổ họ Đào hàng năm vẫn thực hiện tập trung tại nhà ông Chính (ông của Sơn bây
giờ) là như vậy.
Ngày xưa, việc tổ chức giỗ tổ trong họ ta làm thành lịch luân phiên từng hộ gia
đình sửa lễ ngày giỗ bằng xôi nén (xôi đóng khuôn vuông # 16cm) thịt gà giã giò,
xương gà băm viên vê tròn quả táo, hoa quả, trầu cau, cúng xong chia phần cho các hộ
gọi là phần thượng thính (số phần chia theo nam giới).
Trong kháng chiến chống Pháp, không có điều kiện tập trung làm lễ giỗ tổ mãi
đến sau 1975 nước nhà thống nhất, lễ giỗ được khôi phục lại có cải biên nghi thức và
nội dung lễ vật. Các hộ góp quỹ lấy tiền cho vay dùng lãi xuất chi dùng cho việc sắm lễ
ngày giỗ tổ. Thực hiện ngày giỗ là ngày họp mặt đại diện các hộ trong họ, làm lễ dâng
hương xong, trao đổi tìm hiểu tình hình nhau về cuộc sống, bàn bạc phát huy truyền
thống tốt đẹp của dòng họ. Sau đó ăn cơm liên hoan đoàn kết (góp tiền).
Từ trước họ Đào toàn xã Vân Cốc cũ vẫn tập trung làm giỗ nhà ông Chính, bây
giờ là nhà ông Sơn. Do tình hình thực tế cách sông đò, khoảng chục năm gần đây họ
Đào bên xã Hồng Châu (Tràng Lan cũ) xin tách riêng để khỏi đi lại khó khăn, sau đến
họ Đào xã Vân Hà cũng tách. Số họ Đào Vĩnh Phúc còn rất ít. Lâu nay cũng không
tham dự hiện nay chỉ còn ở xã Vân Nam và chi họ Đào con cháu cụ Thư ở Hà Nội vẫn
theo giỗ Tổ ở quê tại nhà ông Sơn, và hiện nay (năm 2002) toàn họ Đào đang đóng góp
mua đất xây nhà thờ họ ở Vĩnh Khang.
Phần hai
Đào môn gia phả diễn lục
Phần này ghi theo nội dung soạn thảo của cụ Đào Văn Thư - năm 1940
Chú ý: Ghi hết 5 đời của cành trưởng thứ nhất rồi ghi tiếp 5 đời của cành thứ
hai.
Đời thứ nhất
Đào Phúc Tô
(Phỏng đoán sinh 1760)
Trong gia phả cụ Thư viết: theo kể lại của cụ Bố là Đào Văn Nghĩa chỉ nhớ
được tên cụ cao tổ 5 đời là Đào Phúc Tô, không nhớ tuổi và năm mất, cụ Tổ bà là Phùng
Thị Viết không nhớ tuổi ngày giỗ là 18 thán