Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiềntệ và cung ứng các dịch vụ
ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác
biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có thể nói, hoạt
động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải né tránh rủi
ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựatrên mối quan hệ rủi ro -
lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợiích xứng đáng với mức rủi ro
chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi romà ngân hàng gánh chịu là
hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi, khả năng các nguồn lực
tài chính và năng lực tín dụng của mình.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồmnghiệp vụ huy động
vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo lãnh, kinh
doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ.
Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng:
- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi
vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo
cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các
khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là
không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân
72 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2602 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN
Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn
chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công
Thương Việt Nam
1
CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM:
1.1.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố
không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng
trong quá trình hoạt động.
Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện
chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không thể đạt
được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội
của việc làm mất đi những cơ hội thị trường.
1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ
ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác
biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có thể nói, hoạt
động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải né tránh rủi
ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro -
lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro
chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là
hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi, khả năng các nguồn lực
tài chính và năng lực tín dụng của mình.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồm nghiệp vụ huy động
vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo lãnh, kinh
doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ...
Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng:
- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi
vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo
cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các
khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là
không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân
2
chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt
động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà
còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như tài trợ thương
mại, thấu chi, bao thanh toán…
- Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận ròng khi lãi suất biến động theo
chiều hướng bất lợi. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn bình
quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị
trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập của
ngân hàng so với dự tính.
- Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các NHTM là
huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, hay nói cách khác là rủi ro khi các NHTM
không đáp ứng được cho các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán do tài sản của
ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể huy động vốn. Trường
hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn
trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Đặc biệt, như chúng ta đã thấy trong bất cứ
một cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn
việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
- Rủi ro ngoại hối: là rủi ro phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn của các khoản
ngoại hối mà các NHTM đang nắm giữ, và vì thế làm cho các NHTM có thể phải
gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
- Rủi ro hoạt động: là rủi ro liên quan đến công nghệ, cơ sở hạ tầng, quy trình, con
người trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay nói cách khác rủi ro
hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một NHTM
điều hành các hoạt động của mình.
- Rủi ro luật pháp: là rủi ro ngân hàng có thể bị khởi kiện vì để xảy ra những sai
sót hoặc sự cố trong quá trình hoạt động kinh doanh gây thiệt hại cho khách hàng
và đối tác. Rủi ro luật pháp mà các NHTM phải đối mặt có thể tiềm ẩn trong nhiều
lĩnh vực kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro luật pháp có thể là do con người
hoặc do công nghệ máy móc.Thậm chí, NHTM có thể gặp phải rủi ro luật pháp
ngay cả khi ngân hàng không phải là bên gây thiệt hại.
3
- Rủi ro chiến lược: là rủi ro phát sinh từ những thay đổi trong môi trường hoạt
động của các NHTM trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro
chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các NHTM.
- Rủi ro uy tín: là rủi ro khi các NHTM bị dư luận đánh giá xấu, gây khó khăn
nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc
khách hàng rời bỏ ngân hàng.
- Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá hay giá
cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Nói cách khác, rủi ro thị trường xảy
ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị
trường.
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM:
1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng:
Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng, theo Điều 2 “Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng” ban hành kèm theo Quyết
định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN: rủi ro tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết.
1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp:
Tính chất đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện ở sự đa dạng và phức
tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu quả do rủi ro
tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tín dụng cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan
với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi
ro tín dụng cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra
biện pháp phù hợp.
1.2.2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu:
Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng thực chất là
quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi
4
nhuận tương ứng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến rủi ro,
đặc biệt do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho
hoạt động kinh doanh của khách hàng vay, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong
quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp
thích hợp để xác định rủi ro, định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro.
1.2.2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo:
Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của một NHTM luôn
luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu giả
định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn chung vẫn giống nhau
trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo các khoản thất thoát này
với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên cứu các đặc điểm diễn biến
của danh mục cho vay theo thời gian.
Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của
các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại thời điểm ký
kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro mà
các NHTM không thể dự báo trước.
1.2.3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng:
Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên:
- Những khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ trong việc trả nợ là biểu hiện rõ nhất.
- Bên cạnh đó, các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ khác nhau
cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau.
Có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của các NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, trên vốn chủ sở hữu, trên quỹ dự phòng
tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (có vấn đề): khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản bảo đảm.
1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng:
1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà
Nước:
5
+ Xuất phát từ hệ thống thông tin:
Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu hướng phát
triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và phi tài
chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục
vụ cho việc xếp loại khách hàng vay.
Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng doanh
nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng thông tin
vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện công tác
marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở rộng thị
phần trên thị trường. Tuy nhiên:
- Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt Nam chưa
có cơ chế công bố thông tin đầy đủ. Trong thời gian qua, Trung tâm thông tin tín
dụng (CIC) trực thuộc NHNN hoạt động đã đạt được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng
chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc
lập và hiệu quả.
- Vai trò nối kết các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn lỏng lẻo,
chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Đây chính là thách thức cho các NHTM trong việc mở rộng và kiểm soát hoạt
động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng
trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu.
+ Xuất phát từ hệ thống văn bản luật:
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hoá trong các văn bản
Luật và các văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu,
phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực tế hoạt động
của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm, đó vừa là
những nguyên nhân sâu xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến rủi
ro tín dụng của các NHTM.
6
- Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối của khá
hiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính
chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh .
- Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất nhập
khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi đột
ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch,
cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc
định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ
dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, khách
hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM.
+ Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:
- Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra,
kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả:
- Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số
nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp thời.
- Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới,
hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng
ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm.
+ Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan:
Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng của các
NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận:
- Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan.
- Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật.
- Cơ quan thi hành án thông đồng với người thi hành án, trung tâm bán đấu giá tài
sản thế chấp tiêu cực.
- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần
đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, NHNN và các cơ quan
ban ngành có liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi
hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các văn bản
hướng dẫn đều đã được ban hành song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì
7
lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc. Các cơ quan pháp luật lại
chậm chạp trong quá trình thực thi chức năng của mình.
- Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ Tài chính (DATC) hoạt động chưa
hiệu quả.
1.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM:
+ Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng:
Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết
vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được bồi
dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại
giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín
dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua
có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín
dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý:
- Thực hiện trái với qui trình tín dụng.
- Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân.
- Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,…
- Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền.
- Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng.
Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ
tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy trong
thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, bản thân
từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận thấy rõ
nét nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của các NHTM
hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế, từ đó dẫn đến việc:
- Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành
nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng khi
cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn
xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ
yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tự tìm hiểu
thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet.
8
- Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm
định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại,
khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai lầm trong cho
vay.
Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng cũng
chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công
việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) chưa đủ sức thu
hút. Thực tế hiện nay cho thấy do tác động của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán
bộ tín dụng giỏi, nhiều kinh nghiệm của các NHTMNN đã được các NHTMCP,
các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng vào những vị trí quan trọng
với nhiều đãi ngộ. Nguồn nhân lực của các NHTMNN đã mỏng do quá trình mở
rộng mạng lưới, lại ngày càng bị hao hụt do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân
công, bố trí công việc, và vấn đề đãi ngộ chưa thật sự thu hút.
+ Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy
trình tín dụng chưa nghiêm túc:
Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của các
NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy tác
dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc ban
hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chính
sách tín dụng chưa thật sự hợp lý:
- Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt tầm chiến
lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội chứng,
phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích.
- Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa học, phù hợp
thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng.
- Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói cách khác
chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường.
- Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập.
9
- Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung của
pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân
hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước sau:
THIẾT L ẬP
Quy trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các
NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như:
- Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được quy định
chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được nhận thức đúng
đắn.
- Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM
vẫn chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp
dụng quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan
hệ khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ
và mới, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục
ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng.
- Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình vận
dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn đánh
giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản xuất
kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh nhiều
sai phạm: về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm tra, quản
lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ gốc
và lãi).
Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán bộ tín
dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy
THIẾT L ẬP
HỒ SƠ
KHÁCH
HÀNG VAY
THANH LÝ
HỢP ĐỒNG
VÀ XỬ LÝ
TRANH CHẤP
GIẢI
NGÂN
VÀ THU
NỢ
RA QUYẾT
ĐỊNH VÀ KÝ
HỢP ĐỒNG
THẨM ĐỊNH
HỒ SƠ
KHÁCH
HÀNG VAY
10
định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản
xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết
định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu buông lỏng quản lý
hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm
chí có khi mất vốn.
+ Xuất phát từ công tác thẩm định:
Đánh giá uy tín, năng lực quản trị, năng lực tài chính của khách hàng:
- Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ
thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi
nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Hiện nay,
công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan
của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay
trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan
hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách
hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng khách
hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì
còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên
thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu
chưa cao, các hiệp hội ngà