Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi
suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất-lưu thông hàng hoá phát
triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của
Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một
chính sách lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong một
lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù
hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân chúng, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo
được cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lí của Nhà
nước, trong quá trình hoà nhập cùng sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem
xét vấn đề lãi suất là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : Tiến tới tự
do hoá lãi suất ở Việt Nam thông qua 4 phần chính:
Phần I: Tìm hiểu chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Phần III: Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất trong giai đoạn hiện nay
Phần IV: Tự do hoá lãi suất ở Việt nam
47 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 2337 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận Văn
"Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam"
2
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi
suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất-lưu thông hàng hoá phát
triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của
Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một
chính sách lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong một
lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù
hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân chúng, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo
được cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lí của Nhà
nước, trong quá trình hoà nhập cùng sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem
xét vấn đề lãi suất là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : Tiến tới tự
do hoá lãi suất ở Việt Nam thông qua 4 phần chính:
Phần I: Tìm hiểu chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Phần III: Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất trong giai đoạn hiện nay
Phần IV: Tự do hoá lãi suất ở Việt nam
3
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài 4
2 Mục đích nghiên cứu của đề tài 5
3 Bố cục của đề án 5
CHƯƠNG 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ LĂI SUẤT
1.1 Các khái niệm về lăi suất 6
1.2 Các loại lăi suất chủ yếu 7
1.3 Chức năng của lăi suất trong nền kinh tế 9
1.4 Các mục tiêu của lăi suất 9
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến lăi suất 10
1.6 Các nguyên tắc xác định lăi suất 12
CHƯƠNG 2 TÙ DO HOÁ LĂI SUẤT
2.1 Khái niệm về tự do hoá lăi suất 13
2.2 Biểu hiện của tự do hoá lăi suất 13
2.3 Tù do hoá lăi suất với các quá tŕnh tự do hoá khác của nền
kinh tế
14
2.4 Tính tất yếu của tự do hoá lăi suất trong nền kinh tế thị
trường
15
2.5 Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lăi suất thành công. 17
4
2.6 Kinh nghiệm của một số nước khi tù do hoá lăi suất 18
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾN TỚI TỰ DO HOÁ LĂI SUẤT Ở VIỆT
Nam
3.1 Những thách thức trong điều hành công cụ lăi suất ở Việt
Nam trong thời gian tới
24
3.2 Định hướng về điều hành lăi suất ở Việt Nam trong thời gian
tới
24
3.3 Việt Nam đă hội tụ đủ các điều kiện để tự do hoá lăi suất hay
chưa
25
3.4 Một số giải pháp và các bước đi tiến tới tự do hoá lăi suất
trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
27
3.5 Một số kiến nghị 34
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
PHẦN I
TÌM HIỂU CHUNG VỀ LÃI SUẤT
I.Khái niệm và vai trò của lãi suất.
1. Khái niệm.
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất
nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi Ngân hàng Trung ương
(NHTW) đặc biệt ở những nước đang phát triển . Vì vậy, có rất nhiều cách hiểu về
lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra một vài khái niệm cơ bản về lãi suất như
sau:
Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng,
đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay
tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ để điều hành chính sách tiện tệ của NHTW
mỗi nước.
5
Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất được ấn định trên thị trường, không được
điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá.
Lãi suất thực là lãi suất được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính
về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Theo
Fishes, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng với mức lạm phát dự tính:
i = r + .
Lãi suất hoàn vốn: Là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh
toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là
phép đo được các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính xác nhất.
Lãi suất tái cấp vốn: Là lãi suất do NHNN áp dụng khi tái cấp vốn.
Lãi suất tái chiết khấu: Là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi NHNN tái
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng.
Lãi suất liên ngân hàng: Là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng,
nơi các ngân hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ dẫn chính xác
hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung cầu vốn trên thị trường.
2. Vai trò của lãi suất.
2.1.Đối với kinh tế vĩ mô.
Lãi suất được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô. Thể hiện ở các nội
dung sau:
Lãi suất tiến hành phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế -> điều
chỉnh cơ cấu đầu tư -> điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển cân đối và ổn định.Lãi suất tác động trực tiếp đến đầu tư, do đó được sử dụng
như một công cụ để chống lạm phát. Nếu nền kinh tế suy thoái, có thể sử dụng lãi
suất để tăng đầu tư, phát triển kinh tế.
Lãi suất hướng dẫn cho sản xuất- tiêu dùng: Lãi suất tăng -> chi phí sản xuất
tăng -> giá thành sản phẩm tăng -> dân chúng sẽ hạn chế tiêu dùng loại hàng sản
xuất đó và ngược lại.
6
Lãi suất là công cụ để kiểm soát các luồng vốn di chuyển giữa các ngành
trong nền kinh tế cũng như với nước ngoài.
Vậy, đối với tầm vĩ mô, lãi suất rất quan trọng, tất cả các nước đều rất quan tâm.
2.2.Đối với tầm vi mô.
Lãi suất là cơ sở quan trọng cho các cá nhân, các doanh nghiệp đưa ra các
quyết định đối với việc sử dụng vốn. Ngoài ra, lãi suất còn góp phần thúc đẩy và
củng cố hiệu quả kinh tế.
2.2.a Lãi suất với sự phân bổ các nguồn lực
Tất cả mọi nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ
và sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị
trường cho thấy, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các
nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò
phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào
một ngành kinh tế, một dự án hay là một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm
đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó
hay tài sản đó so với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét một ngành,
một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để
trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Ngành nào, dự án
kinh doanh nào có tỷ suất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới
đó, và đó là sự phân bổ hiệu quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành sản xuất
khác nhau để đầu tư nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao. Như vậy lợi suất là tín hiệu, là
căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội, lãi suất là
yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư.
2.2.b Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.
7
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng
và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề
hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi
suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều hơn cho
việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất
cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do
đó tiết kiệm tăng.
2.2.c. Lãi suất với đầu tư.
Hoạt động đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi
phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu tư là yếu tố
quan trọng quyết định đầu tư.
Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập
nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm ,
ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật
nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn vay để đầu tư
vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưởng của lãi suất do doanh nghiệp
có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao, chi phí cơ hội của một khoản đầu tư sẽ cao,
chi tiêu đầu tư giảm do các doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn vào đầu tư
vốn hiện vật. Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm, chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên
vì đầu tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh nghiệp so
với mua chứng khoán.
Đối với đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả
cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để
mua hàng. Lãi suất làm việc tăng, chi phí biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi
ích biên đã giả định trước làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm.Như vậy lãi suất là
8
nhân tố chủ yếu quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng
dự trữ.
2.2d. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước
khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế quan, quota, sự ưa thích hàng nội, hàng
ngoại, năng suất lao động.... Ngoài ra tỷ giá trong ngắn hạn còn chịu ảnh hưởng của
lãi suất: Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây
là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm
phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa
tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước
tăng, tỷ giá tăng.Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá
giảm) và ngược lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động XNK. Nếu lãi suất tăng làm tăng tỷ giá
sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy thông
qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có ảnh hưởnglớn tới xuất nhập khẩu, xuất khẩu ròng
của một quốc gia.
2.2.e. Lãi suất với lạm phát.
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm
phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Những nước
trải qua lạm phát cao cũng chính là những nước có mức lãi suất cao. Lạm phát là
hiện tượng mất giá của đồng tiền, là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền
kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy cũng có nhiều biện pháp khác
nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể
thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu
9
thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như
vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy
trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng.
Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể
kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất
phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
III. Các loại lãi suất thông dụng.
1.Lãi suất đi vay.
Là lãi suất mà ngân hàng trả cho khách hàng khi vay vốn của họ. Lãi suất đi
vay thường được công bố trước lãi suất cho vay.
2.Lãi suất cho vay.
Là lãi suất mà người đi vay của ngân hàng phải căn cứ vào đó để trả lãi cho
ngân hàng. Lãi suất cho vay đứng đằng sau lãi suất đi vay trong bảng công bố lãi
suất.
3.Lãi suất đơn.
Là lãi suất được hình thành do không ghép lãi vào vốn. Lãi suất đơn thường
là lãi suất danh nghĩa, ghi trên hợp đồng tín dụng.
4.Lãi suất kép.
Còn gọi là lãi suất thực tế không ghi trên hợp đồng tín dụng mà tự các bên kí
kết hợp đồng tính toán để biết được mức lãi thực tế mà họ nhận được là bao nhiêu.
Lãi suất kép chính là mức lãi suất mà người đi vay và người cho vậy quan tâm đến.
II. Nguyên tắc và phương pháp xác định lãi suất.
1. Các nguyên tắc cơ bản để xác định chế độ lãi suất.
Lãi suất tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Lãi suất phải đồng thời thực hiện được 2 chức năng kích thích, điều
tiết hoạt động kinh tế phát triển và là chính sách kinh tế có hiệu quả.
10
Do lãi suất có ảnh hưởng đến tất cả các quyết định liên quan đến tiền trong
xã hội nên việc xác định một mức lãi suất hợp lí là rất quan trọng. Lãi suất có khả
năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ
người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư
sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức
hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu
tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn
người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức
lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì
chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng,
không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở
thành ” vốn chết ” không còn tác dụng gì nữa. Vì vậy, trước khi xác định mức lãi
suất phải tính đến nguyên tắc này đầu tiên.
Nguyên tắc 2: Bảo tồn giá trị của vốn, bù đắp được rủi ro, có tích luỹ cho người sở
hữu vốn và người sử dụng vốn.
Khi đem vốn vào sử dụng, sau một thời gian nhất định, người sử dụng vốn
cũng như người cho vay vốn đều hi vọng vốn ban đầu sẽ tạo ra một lượng tiền lớn
hơn tức là có sinh lãi đủ để trang trải các chi phí và để lại một phần lợi nhuận. Đây
là lẽ đương nhiên. Song trên thực tế không phải đầu tư nào cũng đem lại kết quả tốt
đẹp, sẽ có những lúc bị lỗ, thậm chí mất cả vốn ban đầu. Do đó, lãi suất phải đảm
bảo nguyên tắc 2 để người cho vay và người đi vay không bị thiệt thòi dù cho việc
sử dụng vốn có lúc lãi có lúc lỗ.
Nguyên tắc 3: Lãi suất phải được phân định theo thị trường tiền tệ cấp 2.
Sở dĩ lãi suất phải phân định ra vì trên mỗi thị trường, các yếu tố quyết định
đến mức lãi suất là khác nhau như: chủ thể sở hữu và sử dụng vốn, chi phí huy
động vốn, mức độ rủi ro, uy tín của người vay.v.v...Tuy nhiên, lãi suất trên thị
trường cấp 2 có thể dựa vào lãi suất trên thị trường cấp một để định ra mức lãi suất
11
phù hợp và lãi suất trên thị trường cấp 1 có thể tăng hay giảm để tác động vào lãi
suất của thị trường cấp 2. Tóm lại, lãi suất trên 2 thị trường tiền tệ phải khác nhau
nhưng có quan hệ hữu cơ và ràng buộc lẫn nhau. Thông thường, lãi suất trên thị
trường cấp một nhỏ hơn lãi suất trên thị trường cấp 2 để đảm bảo cho các tổ chức
tín dụng sau khi đi vay trên thị trường cấp 1 và cho vay trên thị trường cấp 2 sẽ thu
được một phần lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất trên hai thị trường đó.
Nguyên tắc 4: Nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở nguyên tắc 1 và 2, trong
đó:
Tỉ lệ lạm phát < Lãi suất đi vay < Lãi suất cho vay < Tỉ suất lợi nhuận bình
quân của nền kinh tế
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất trung và dài hạn.
Bất đẳng thức 1 cho thấy lãi suất phải đảm bảo có lợi cho cả người vay và
người đi vay đồng thời có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển nền
kinh tế. Tỉ lệ lạm phát càng thấp và tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế càng
cao thì càng tốt đối với cả dân cư, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
Trong bất đẳng thức 2, lãi suất rõ ràng phải có tính bù đắp được rủi ro, thời
hạn sử dụng vốn càng dài, rủi ro càng cao thì lãi suất càng lớn. Vì nếu lãi suất ngắn
hạn lớn hơn lãi suất trung và dài hạn thì nó chỉ có lợi cho những người giàu, lắm
tiền gửi vào TCTD, sống dựa vào lãi cao, ngắn ngày, làm mất đi chức năng cơ bản
của các tổ chức tín dụng là “ đi vay để cho vay” và có hại cho nền kinh tế, xã hội và
các doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo sự biến thiên của lãi suất theo sát sự biến động của thị
trường tiền tệ trong nước và tiếp cận thị trường quốc tế.
Lãi suất phản ánh qui luật cung- cầu vốn, do đó nó phải phụ thuộc vào sự
biến động của các luồng vốn trên thị trường. Nếu cung vốn đang thừa mà lãi suất
cứ tăng lên thì những người cần vốn trên thị trường sẽ không vay tiền nữa, làm cho
vốn không được lưu thông, hạn chế sự tăng trưởng của nền kinh tế.
12
Mặt khác, đối với mỗi quốc gia, lãi suất không chỉ phù hợp với thị trường
trong nước mà còn phải vận động ngày càng gần với lãi suất trên thị trường quốc
tế. Có như thế, đất nước mới có thể hoà nhập với nền kinh tế thế giới và có quan hệ
bình đẳng với các quốc gia phát triển khác.
1.Phương pháp xác định lãi suất.
1.1. Cơ sở hình thành lãi suất.
Việc tìm ra một cơ sở có thể hoàn toàn tin cậy là không thể có ngay được.
Các nước có nền kinh tế thị trường cạnh tranh hoàn hảo cũng đã và đang xây dựng
lãi suất theo phương pháp phân tích thông tin của thị trường, với kinh nghiệm và sự
uyên thâm trong nghề nghiệp để định lượng một lãi suất phù hợp. Trong phần này,
chúng ta xem xét các cơ sở mà hầu hết các nước đang sử dụng cho việc hình thành
lãi suất.
Tỉ lệ lợi nhuận bình quân và tỉ lệ trượt giá là hai yếu tố quan trọng cấu thành
nên lãi suất đồng thời cũng là 2 cơ sở hình thành nên mức lãi suất. Lãi suất tín dụng
trong cơ chế thị trường bị giới hạn bởi tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế
(giới hạn trên) và tỉ lệ lạm phát (giới hạn dưới). Lãi suất chỉ có thể vận động trong
giới hạn đó và phải căn cứ vào 2 yếu tố này cùng với quy luật cung - cầu vốn để
tăng, giảm một cách hợp lí. Mặt khác, do nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào 2 cơ
sở trên nên lãi suất được đặt ra, ngoài mục đích thu lợi cho một cá nhân, một tổ
chức, phải đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, khi xác định lãi suất,
người ta phải dựa trên 2 cơ sở cơ bản này.
Cơ sở thứ 3 là ước định một tỉ lệ kích thích. Lãi suất cũng giống như các loại
giá cả khác, chỉ cần thấp hoặc cao hơn một chút so với các tổ chức tín dụng khác đã
có thể thu được nhiều khách hàng hơn, cho vay nhiều hơn hoặc ngược lại. Như vậy,
trên cơ sở một tỉ lệ kích thích, lợi nhuận của TCTD có thể bị giảm đi nếu tính trên
giá trị từng giao dịch song với số lượng giao dịch tăng lên thì lợi nhuận vẫn tăng
mà TCTD lại tạo ra được lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mình.
13
Cơ sở tiếp theo là chỉ tiêu hợp lí về tổng chi phí tín dụng bình quân. Dựa trên
chỉ tiêu này, người ta có thể xác định được nhiều chỉ tiêu khác như doanh thu, lợi
nhuận, mức lương, mức lãi suất.v.v...Nếu tính toán tổng chi phí tín dụng bình quân
cao hơn nhu cầu thực tế của thị trường sẽ dẫn đến thừa vốn, TCTD muốn cho vay
được phải giảm lãi suất cho vay. Điều này có thể dẫn đến hai hậu quả là giảm lãi
suất tiền gửi khiến khách hàng chuyển sang gửi tiền ở các TCTD khác hoặc là giảm
lợi nhuận đồng thời giảm tiền lương của cán bộ công nhân viên. Nếu chỉ tiêu trên
thấp hơn nhu cầu thực tế thì tác động ngược lại , TCTD phải nâng cả lãi suất đi vay
và lãi suất cho vay lên. Khi lãi suất cho vay tăng, các doanh nghiệp sẽ vay ít hơn
cho đầu tư vào sản xuất kinh doanh khiến cho nền kinh tế tăng trưởng chậm lại. Vì
vậy, xác định chỉ tiêu tổng chi phí tín dụng bình quân hợp lí là rất cần thiết khi hình
thành lãi suất giúp cho TCTD giữ được uy tín với các doanh nghiệp vay vốn và thu
hút được nhiều khách hàng gửi tiền.
Cơ sở cuối cùng là kinh nghiệm nghề nghiệp của các chuyên gia. Lãi suất là
một biến số được cấu thành từ rất nhiều biến số khác nhau mà trong đó chủ yếu là
những biến số mang tính khách quan. Do đó, muốn xác định được lãi suất phải nắm
chắc được các yếu tố cấu thành nó. Sự biến động của các yếu tố này rất phức tạp,
do đó c