Tài chính công là một tất yếu đi cùng sự tồn tại của mỗi nhà nước, nó gắn liền với hoạt động của Nhà nước, vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện được và thực hiện tốt các chức năng của mình đồng thời là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, Các hoạt động của bộ máy Nhà nước; phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức tiền tệ trong quá trình tổng phân phối tổng nguồn lực tài chính quốc gia biểu hiện thông qua các hoạt động thu, chi tiền để hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước và các chủ thể công quyền( quỹ công) nhằm thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội của nhà nước trong việc cung cấp hàng hoá dịch vụ công cộng cho xã hội không vì mục đích lợi nhuận
34 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổng hợp về hệ thống Tài chính công và nhận xét hệ thống tài chính công ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Tổng hợp về hệ thống Tài chính công và nhận xét hệ thống tài chính công ở Việt Nam
Mục Lục
Phần 1 - Tổng hợp về hệ thống tài chính công.
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính công
Tổng quan về Tài chính công
Khái niệm Tài chính công
Đặc điểm của Tài chính công
Chức năng của Tài chính công
1.1.4 Hệ thống Tài chính công
Chương 2 : Quản lý tài chính công
2.1 Khái niệm và đặc điểm của quản lý Tài chính công
Nội dung cơ bản của quản lý Tài chính công
Tổ chức bộ máy quản lý Tài chính công
Chương 3: Vai trò của tài chính công
Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước
Tài chính công là công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội
Phần 2 – Nhận xét về hệ thống tài chính công ở Việt Nam
Danh mục viết tắt
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CCHC : Cải cách hành chính
NSNN : Ngân sách nhà nước
Lời mở đầu
Tài chính công là một tất yếu đi cùng sự tồn tại của mỗi nhà nước, nó gắn liền với hoạt động của Nhà nước, vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện được và thực hiện tốt các chức năng của mình đồng thời là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, Các hoạt động của bộ máy Nhà nước; phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức tiền tệ trong quá trình tổng phân phối tổng nguồn lực tài chính quốc gia biểu hiện thông qua các hoạt động thu, chi tiền để hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước và các chủ thể công quyền( quỹ công) nhằm thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội của nhà nước trong việc cung cấp hàng hoá dịch vụ công cộng cho xã hội không vì mục đích lợi nhuận
Nhận thức được tầm quan trọng của Tài chính công trong ngân sách nhà nước cũng như những vai trò của tài chính công, em xin chọn đề tài: “Tổng hợp về hề thống Tài chính công và nhận xét về hệ thống tài chính công ở Việt Nam”.
Đề tài của em gồm các phần chính sau:
Lời mở đầu
Phần 1 – Tổng hợp về hệ thống tài chính công.
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính công
Chương 2: Quản lý tài chính công
Chương 3: Vai trò của tài chính công
Phần 2 – Nhận xét về hệ thống tài chính công ở Việt Nam.
Kết luận.
Phần 1 - Tổng hợp về hệ thống tài chính công.
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính công
Tổng quan về Tài chính công
Khái niệm Tài chính công
Khi xem xét hệ thống tài chính quốc dân, dựa vào chủ sở hữu, có thể chia thành Tài chính công và Tài chính tư. Trong đó hệ thống tài chính tư bao gồm:
+ Tài chính các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tài chính hộ gia đình.
+ Tài chính các tổ chức chính trị-xã hội, nghề nghiệp.
+ Tài chính các doanh nghiệp nhà nước (gồm cả doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ phi tài chính và doanh nghiệp dịch vụ tài chính). Các doanh nghiệp này mặc dù có nguồn tài chính thuộc sở hữu nhà nước nhưng hoạt động ở đây chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, không phải vì lợi ích công cộng, lợi ích toàn xã hội nên khong được xếp vào Tài chính công.
Nếu xem xét về ý nghĩa và phạm vi, thuật ngữ Tài chính công được hiểu là sự hợp thành bởi ý nghĩa và phạm vi của 2 thuật ngữ: “Tài chính” và “Công”.
Về thuật ngữ “tài chính”, theo quan niệm phổ biến, tài chính được hiểu là:
Có biểu hiện bên ngoài là các hiện tượng thu, chi bằng tiền.
Có nội dung vật chất là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ.
Có nội dung kinh tế bên trong là các quan hệ kinh tế – quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị (gọi là quan hệ tài chính) nảy sinh trog quá trình phân phối các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ.
Về thuật ngữ “công” hay “công cộng” :
Xét về ý nghĩa, thuật ngữ công có thể hiểu trê các khía cạnh:
+ Về quan hệ sở hữu: là sở hữu công cộng.
+ Về mục đích hoạt động: là lợi ích công cộng.
+ Về chủ thể tiến hành hoạt động: là các chủ thể công.
+ Về pháp luật điều chỉnh: là các Luật công.
Xét về phạm vi, thuật ngữ công có thể được hiểu trên các khía cạnh:
+ Trên phạm vi toàn quốc, toàn xã hội, cả cộng đồng.
+ Trong phạm vi một nhóm người, một tập thể, một tổ chức…
Trên pham vi cả quốc gia, công cần được hiểu là toàn quốc, toàn xã hội, cả cộng đồng; loại trừ nghĩa hẹp một nhóm người, một tập thể, một tổ chức.
Vậy Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do nhà nước tiến hành , nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.
Đặc điểm của Tài chính công
Đặc điểm về chủ thể của Tài chính công
Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc sử dụng các quỹ công bởi Tài chính công thuộc sở hữu Nhà nước
- Đặc điểm về nguồn hình thành thu nhập của Tài chính công
Xét về nội dung vật chất, Tài chính công bao gồm các quỹ công.
Việc hình thành thu nhập của Tài chính công mà đại diện tiêu biểu là NSNN có đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, thu nhập của Tài chính công có thể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, cả trong và ngoài nước; từ nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau…
Thứ hai, Thu nhập của Tài chính công có thể được lấy về bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau.. luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả là chủ yếu.
-Đặc điểm về tính hiệu quả của chi tiêu Tài chính công
Chi tiêu Tài chính công là việc phân phối và sử dụng quỹ công
Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh ở cơ sở, tầm vi mô, việc dựa vào các chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả các khoản chi tiêu công sẽ gặp phải khó khăn và sẽ không cho phép có cái nhìn toàn diện. Hiệu quả của việc sử dụng các quỹ công phài được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra mà các việc chi tiêu công phải đảm nhận.
-Đặc điểm về phạm vi hoạt động
Gắn liền với bộ máy nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế, phạm vi ảnh hưởng của Tài chính công rất rộng rãi, Tài chính công có thể tác động tới các hoạt động khác nhau nhất của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Thông qua quá trình phân phối các nguồn tài chính, Tài chính công có khả năng động viên, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia vào các quỹ công từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi chủ thể kinh tế xã hội; đồng thời, bằng việc sử dụng các quỹ công, Tài chính công có khả năng tác động tới mọi hoạt động kinh tế - xã hội, đạt tới những mục tiêu đã định.
Chức năng của Tài chính công
-Chức năng tái phân phối thu nhập
Chức năng tái phân phối thu nhập của Tài chính công là khả năng khách quan của Tài chính công mà nhờ đó, Tài chính công được sử dụng vào phân phối và phân phối lại các nguồn tài chính trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu công bằng.
Trong đó, chủ thể phân phối là các chủ thể công, đại diện là Nhà nước chủ yếu trên tư cách là người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối tài chính đã thuộc sở hữu công cộng hoặc đang là thu nhập của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội mà hà nước tham gia điều tiết. Công bằng trong phân phối biểu hiện trên 2 khía cạnh là công bằng về mặt kinh tế và công bằng về mặt xã hội.
-Chức năng điều chỉnh và kiểm soát
Chức năng điều chỉnh và kiểm soát của Tài chính công là khả năng khách của tài chính công để có thể thực hiện việc điều chỉnh lại quá trình phân phối các nguồn lực tài chính và xem xét lại tính đúng đắn, tính hợp lý của các quá trình phân phối đó trong mọi lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
Giữa điều chỉnh và kiểm soát lại gắn bó mật thiết, đều nhằm mục đích cuối cùng là thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược đã đặt ra, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển một cách cân đối, ổn định và vững chắc. Trên cơ sở kết quả của kiểm tra phát hiện nhưng mất cân đối, bất hợp lý trong quá trình phân bổ các nguồn tài chính mà tiến hành những điều chỉnh cần thiết để đảm bảo cho quá trình đó được hợp lý, đúng đắn hơn.
Thứ nhất, đảm bảo cho việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ công được đúng đắn, hợp lý đạt kết quả tối đa nhất theo các mục tiêu, yêu cầu đã định. Việc bảo đảm đó được thực hiện, trước hết, nhờ tính tự động của điều chỉnh đối với các quá trình phân bổ trên cơ sở các điều kiện thực tế và đòi hỏi khách quan của sự phát triển; sau nữa nhờ qua kiểm tra mà phát hiện ra những bất hợp lý của quá trình phân bổ để có thể hiệu chỉnh lại quá trình đó theo các mục tiêu và yêu cầu đã định.
Thứ hai, góp phần điều chỉnh quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội khác, đảm bảo cho các hoạt động thu, chi bằng tiền ở đó thực hiện theo đúng các quy định của chính sách, chế độ Nhà nước.
Các chức năng của Tài chính công là sự thể hiện bản chất của tài chính công. Vận dụng các chức năng này vào hoạt động thực tiễn, Tài chính công được tổ chức thành một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận khác nhau để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đặc thù, cụ thể hóa các chức năng chung của tài chính công.
Hệ thống Tài chính công
Hệ thống Tài chính công là tổng thể các hoạt động tài chính gắn liền với việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ công và cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước nhằm phục vụ và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận.
Với việc xác định các tiêu chí đặc trưng của Tài chính công, có thể loại trừ khỏi Tài chính công các mắt khâu của hệ thống tài chính tư, từ đó có thể đưa ra, tài chính công gồm các bộ phận cấu thành là:
-NSNN
-Tín dụng nhà nước
-Các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN
-Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước
-Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước
Tùy theo các cách tiếp cận khác nhau, dựa trên các tiêu thức khác nhau có thể có các cách phân loại khác nhau về hệ thống Tài chính công. Ở đây đưa ra một số cách phân loại sau:
+ Phân loại theo chủ thể quản lý trực tiếp:
Tài chính công tổng hợp tồn tại và hoạt động gắn liền với vịêc tạo lập và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ cho sự tồn tại, cho các hoạt động của bộ máy nhà nước và để Nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của mình. Có thể nói bên cạnh sự tồn tại của Nhà nước, tài chính công tổng hợp sự tồn tại là một tất yếu.
Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính được phép thu một số khoản thu về phí và lệ phí nhưng số thu đó trên thực tế là không đáng kể. Do đó, nguồn tài chính đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động hầu như là do NSNN cấp. Nguồn tài chính ở đây được duy trì sự tồn tại của bộ máy hoạt động và để các cơ quan này thực hiện các nghiệp vụ hành chính hay cung cấp các dịch vụ hành chính công thuộc chức năng của mình.Về quản lý tài chính của các cơ quan hành chính thì chủ thể trực tiếp quản lý chính là các cơ quan này.
Tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước, là các đơn vị thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu mang tính phục vụ. Các đơn vị này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – xã hội. Hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có các đơn vị sự nghiệp của các ngành như: sự nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông, thủy lợi…
Do mang tính chất phục vụ là chủ yếu, ở các đơn vị sự nghiệp số thu thường không lớn và không ổn định hoặc không có thu. Do đó, thu nhập của hầu hết các đơn vị này chủ yếu do NSNN cấp toàn bộ hoặ phần lớn. Cá biệt, có một số đơn vị sự nghiệp có số thu khá lớn, Nhà nước có thể cho các đơn vị này áp dụng chế độ tài chính riêng. Với các dịch vụ kể trên, các chi tiêu của các đơn vj này chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Cũng giống như cơ quan hành chính, các đơn vị này trực tiếp quản lý tài chính của mình.
+ Phân loại theo nội dung quản lý:
NSNN, theo điều 1 – Luật NSNN, NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiêm vụ của Nhà nước.
Cũng có thể hiểu NSNN là một hệ thống bao gồm các cấp Ngân sách phù hợp với hệ thống chính quyền nhà nước các cấp. Tương ứng với các cấp Ngân sách của hệ thống NSNN, quỹ NSNN được chia thành: quỹ Ngân sách Chính phủ TW, quỹ Ngân sách của chính quyền cấp tỉnh và tương đương , quỹ Ngân sách của chính quyền cấp huyện và tương đương, quỹ Ngân sách của chính quyền cấp xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền nhà nước các cấp, quỹ Ngân sách lại được chia thành nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau như: phần dùng cho phát triển kinh tế; phần dùng cho phát triển văn hóa, giáo dục, y tế; phần dùng cho các biện pháp xã hội, an ninh, quốc phòng…
Thu Ngân sách được lấy từ mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau, trong đó Thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên tính cưỡng chế là chủ yếu. Chỉ tiêu của NSNN nhằm duy trì sự tồn tại hoạt động của bộ máy nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng NSNN là mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Tín dụng nhà nước, bao gồm cả hoạt động đi vay và hoạt động cho vay của nhà nước. Tín dụng nhà nước thường được sử dụng để hỗ trợ NSNN trong các trường hợp cần thiết.
Thông qua hình thức tín dụng nhà nước, Nhà nước động viên các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu tạm thời của các cấp chính quyền nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu là thông qua việc cấp vốn thực hiện các chương trình cho vay dài hạn. Đặc trưng cơ bản của các quan hệ tín dụng nhà nước là mang tính tự nguyện và có hoàn trả.
Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc Tài chính công theo cơ chế nhiều quỹ thành và quỹ NSNN và các quỹ ngoài Ngân sách là phù hợp với việc phân cấp, phân công quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Điều đó đảm bảo phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo của các địa phương, các ngành các đơn vị quản lý kinh tế - xã hội và là điều kiện thực hiện chuên mon hóa lao động trong quản lý Tài chính công đảm bảo cho việc quản lý đó được chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn. Va thực tế trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy quyền tự chủ của các ngành, các địa phương và các đơn vị cơ sở, thực hiện phương châm đa dạng hóa các nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh NSNN, các quỹ ngoài ngân sách cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng. Trong những năm qua, các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN đã có tác dụng tích cực trong việc khai thác , huy động các nguồn lực tài chính từ các chủ thể khai thác, cùng với quỹ NSNN, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô. Vì thế, trong chính sách Tài chính công, bên cạnh chính sách Ngân sách, việc nghiên cứu để có chính sách hợp lý đối với việc quản lý và sử dụng các quỹ ngoài Ngân sách là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên cần lưu ý vấn đề sau:
Vấn đề tổ chức sao cho hợp lý về số lượng và quy mô các quỹ ngoài Ngân sách là điều cần được tính toán, cân nhắc nhằm tránh phân tán nguồn lực của tài chính công vì nguồn tài chính để tạo lập các quỹ TCNN ngoài NSNN đều có nguồn gốc ít nhiều từ NSNN
Các quỹ ngoài Ngân sách được quản lý theo các quy định riêng, không chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi Luật NSNN là một điều gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các quỹ, làm hạn chế tính đầy đủ, chính xác của việc phân tích đánh giá chi tiêu công, tính hạn chế minh bạch của ngân sách; đồng thời còn làm khó tránh khỏi sự trùn, lặp về chức năng, nhiệm vụ của quỹ, làm suy yếu tính hiệu quả của hệ thống quỹ trong việc phối hợp các quỹ ngoài Ngân sách nhằm hỗ trợ NSNN giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Do đó, xây dựng một hệ thống khung pháp luật thống nhất điều chỉnh hoạt động của các quỹ ngoài Ngân sách trở thành đòi hỏi cần thiết và cấp bách.
Chương 2 : Quản lý tài chính công
2.1 Khái niệm và đặc điểm của quản lý Tài chính công
* Khái niệm quản lý Tài chính công
Quản lý Tài chính công là hoạt động của các chủ thể quản lý Tài chính công thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của Tài chính công nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Quản lý Tài chính công là một nội dung của quản lý tài chính và là một mặt của quản lý xã hội nói chung, do đó trong quản lý Tài chính công, các vấn đề : chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý cũng là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải được xác định đúng đắn và nhận thức đầy đủ.
Đặc điểm quản lý tài chính công
- Chủ thể quản lý Tài chính công là nhà nước hoặc các cơ quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động tạo lập và sử dụng các quỹ công
Đối tượng quản lý Tài chính công là các hoạt động của Tài chính công.
Quản lý Tài chính công thực chất là quản lý các quỹ công, quản lý các hoạt động tạo lập và sử dụng thu chi các quỹ công, do có sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý yếu tố con người với quản lý yếu tố hoạt động tài chính là đặc điểm quan trọng của quản lý Tài chính công.
-Các phương pháp quản lý Tài chính công
Trong quản lý Tài chính công, các chủ thể quản lý có thể sử dụng nhiều phương pháp quản lý và nhiều công cụ quản lý khac nhau.
Phương pháp tổ chức được sử dụng để thực hiện ý đồ cuả chủ thể quản lý trong việc bố trí, sắp xếp các mặt hoạt động của Tài chính công theo những khuôn mẫu đã định và thiết lập bộ máy quản lý phù hợp với các mặt hoạt động đó của Tài chính công.
Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể quản lý Tài chính công muốn các đòi hỏi của mình phải được các khách thể quản lý tuân thủ một cách vô điều kiện. Đó là khi các chủ thể quản lý ra các mệnh lệnh hành chính.
Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi ích vật chất để kích thích tính tích cực của các khách thể quản lý, tức là tác động tới các tổ chức cá nhân và cá nhân đang tổ chức các hoạt động Tài chính công.
-Các công cụ quản lý Tài chính công
Hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực Tài chính công được sử dụng để quản lý và điều hành các hoạt động Tài chính công được xem như một công cụ quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quản lý Tài chính công, công cụ pháp luật được sử dụng thể hiện dưới các dạng cụ thể là các chính sách, cơ chế quản lý tài chính; các chế độ quản lý tài chính, kế toán, thống kê; các định mức, tiêu chuẩn về tài chính, mục lục NSNN…
Cùng với pháp luật, hàng loạt công cụ phổ biến khác được sử dụng trong quản lý Tài chính công như: các đòn bẩy kinh tế, tài chính; Kiểm tra, thanh tra, giám sát; các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý Tài chính công…
Mỗi công cụ kể trên có đặc điểm khác nhau và được sử dụng theo các cách khác nhau nhưng đều nhằm cùng một hướng là thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động Tài chính công nhằm đạt tới mục tiêu đã định. Tuy nhiên, do đặc điểm của Tài chính công là luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước, nên trong quản lý Tài chính công phải đặc biệt chú trọng các phương pháp, công cụ mang tính quyền uy, mệnh lệnh để đảm bảo tính tập trung, thống nhất. Đó là các phương pháp tổ chức, hành chính, các công cụ pháp luật, thanh tra kiểm tra. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của quản lý Tài chính công.
-Nội dung vật chất của Tài chính công
Nội dung vật chất của Tài chính công là các nguồn tài chính thuộc các quỹ công. Tổng số nguồn lực tài chính đó là biểu hiện về mặt giá trị, là đạu diện cho một lượng của cải vật chất của xã hội. Về hình thức, các nguồn tài chính này có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản.
Về lý thuyết cũng như thực tiễn, sự vận động của cá