Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế của nước ta là "Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa." (trích Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và trình đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đòi hỏi phải có nguồn lực lớn mà cụ thể là huy
động được nguồn vốn lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Phát triển thị trường
chứng khoán, tìm ra các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán đã đáp ứng
được nhu cầu cấp bách về nguồn vốn hiện nay.
32 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 2209 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Luận văn
Đề tài: Vai trò của thị trường chứng
khoán đối với nền kinh tế Việt Nam
Trang 2
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán 2
I/ Chứng khoán và thị trường chứng khoán 2
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới 2
2. Khái niệm 3
II/ Cơ cấu và hoạt động của thị trường chứng khoán 7
1. Thị trường sơ cấp 7
2. Thị trường thứ cấp 8
3. Sở giao dịch chứng khoán 9
4. Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán 11
5. Giao dịch trên thị trường chứng khoán 13
III/ Vai trò của thị trường chứng khoán 14
Phần II: Sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam 17
I/ Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt nam 17
1. Do yêu cầu của nền kinh tế 17
2. Do yêu cầu của nhà nước 18
III/ Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 18
1. Thực trạng 18
2. Những thuận lợi cho sự hình thành một thị trường chứng khoán thực sự tại Việt
Nam
19
3. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 20
4. Hàng hoá ở thị trường chứng khoán 21
5. Những vấn đề còn tồn tại 22
Phần III: Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt
Nam
24
Trang 3
I/ Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 24
II/ Giải pháp để khắc phục những hạn chế giải quyết vấn đề về hàng hoá trên thị
trường chứng khoán
26
Kết luận 29
Tài liệu tham khảo 30
Trang 4
LỜI NÓI ĐẦU
Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế của nước ta là "Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa..." (trích Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và trình đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đòi hỏi phải có nguồn lực lớn mà cụ thể là huy
động được nguồn vốn lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Phát triển thị trường
chứng khoán, tìm ra các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán đã đáp ứng
được nhu cầu cấp bách về nguồn vốn hiện nay.
Trang 5
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
I. CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế
giới.
Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đến
nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được
trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán của
phương tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng việc
mua bán, trao đổi các loại hàng hoá như: nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá
khoán động sản … Điểm đặc biệt là trotng những cuộc thương lượng này các
thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá
khoán động sản hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này
nhằm thống nhất với nhau các "Hợp đồng" mua bán, trao đổi thực hiện ngay, kể cả
những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm sau mới thực hiện.
Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người tăng
lên. Đến cuối thế kỷ 15 "khu chợ riêng" này trở thành một "thị trường" và thời gian
họp chợ rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Trong các phiên chợ này họ
thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần những
quy ước đó được tu bổ hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với
những người tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành.
Phiên chợ đầu tiên năm 1453 tại đai Vanber của Bỉ sau đó được xuất hiện ở Anh
năm 1773, ở Đức 1778, ở Mỹ 1792, ở Thụy sĩ 1876, ở Nhật 1878, ở Pháp 1801, ở
Hương Cảng 1946, ở Inđônêxia 1925, ở Hàn Quốc 1956, ở Thái Lan 1962, ở
Malaysia và Philipin 1963.
Trang 6
Quá trình hình thành và phát triển của các thị trường chứng khoán thế giới đã trải
qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm 1975 - 1913 cùng
với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế. Cũng có lúc thị trường chứng khoán
rơi vào đêm đen như ngày thứ năm đen tối tức ngày 29/10/1929 rồi ngày thứ hai
đen tối năm 1987, vừa qua tháng 7/97 thị trường chứng khoán ở các nước Châu Á
sụt giá, mất lòng tin bắt đầu từ Thái Lan. Đến nay thị trường chứng khoán các
nước đang phát triển mạnh mẽ về số lượng thị trường chứng khoán lên đến 160 sở
giao dịch, chất lượng hoạt động thị trường ngày càng đáp ứng cho số đông những
nhà đầu tư trong và ngoài nước, tiến tới một thị trường chứng khoán hội nhập khu
vực và quốc tế.
Hiện nay thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công
nghiệp hàng đầu Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp… Bên cạnh đó hơn 40 nước phát triển
đã thiết lập thị trường chứng khoán cũng đã hình thành ở các nước láng giềng Việt
Nam như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipin và Inđônêxia và Việt Nam cũng
đã có trung tâm giao dịch thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
(7/2000).
2. Các khái niệm
a. Chứng khoán:
Chứng khoán là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và
trái phiếu.
Cổ phiếu là loại chứng chỉ xác nhận việc góp vốn của một người vào công ty cổ
phần. Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của người này đối với công ty cổ phần,
người sở hữu được gọi là cổ đông, cổ đông có các quyền hạn và trách nhiệm đối
với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả kinh doanh của công ty cổ
phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý, ban kiểm soát. Cổ phiếu có thể
được phát hành vào lúc thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở
rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh.
Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi nhuận nhiều hơn
Trang 7
giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công ty làm ăn thua lỗ. Cổ
đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó đã góp vào công ty cổ phần,
họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ phiếu đó ra trên thị trường chứng khoán.
Trái phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền làm chủ một món nợ của chủ sở hữu trái
phiếu đối với đơn vị phát hành. Trái phiếu là loại chứng khoán mà lãi suất vay nợ
đã được xác định rõ ngay khi phát hành do đó nó có lợi tức cố định và chỉ được
hoàn trả khi đến hạn thanh toán ghi trên trái phiếu mà người phát hành phải thực
hiện. Trái phiếu do các doanh nghiệp có thể là quốc doanh, tư doanh hay cổ phần
phát hành. ở Việt Nam hình thức vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu đã xuất
hiện ở một vài nơi. Ví dụ như việc phát hành trái phiếu huy động vốn cho đầu tư
mở rộng sản xuất của nhà máy xi măng Hoàng Thạch vào cuối năm 994, một số
doanh nghiệp khác cũng có hình thức huy động vốn này để vay của cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp.
Kỳ phiếu là chứng chỉ của nhà nước phát hành với mục đích vay vốn của các tổ
chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư để bù đắp vào thâm hụt của ngân sách Nhà
nước. Trong vài năm trở lại đây, kho bạc nhà nước đã phát hành kỳ phiếu kho bạc
rộng rãi trong cả nước.
b. Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (tiếng latinh là Bursa - nghĩa là cái ví tiền) là nơi mà
cung và cầu của các loại chứng khoán gặp nhau để xác định giá cả. Số lượng của
từng loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường.
Cụ thể hơn thị trường chứng khoán có thể được định nghĩa như là nơi tập trung
các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những nguồn tiết
kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác thị trường chứng
khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này, có thêm nhiều vốn hơn
để đưa vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh tế tăng
trưởng và tạo nên sự thịnh vượng.
Theo định nghĩa nêu trên, thị trường chứng khoán không phải là cơ quan mua
vào hoặc bán ra các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ là nơi giao
Trang 8
dịch, ở đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới
chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch (mua -
bán) chứng khoán của những người muốn mua hay bán chứng khoán mà là của
những nhà môi giới. Nếu một người muốn mua hay bán chứng khoán, người này
sẽ thông qua người môi giới chứng khoán của anh ta trên thị trường chứng khoán
để tiến hành việc mua bán chứ không trực tiếp tham gia mua bán. Giá cả chứng
khoán được hình thành một cách khách quan theo hệ thống bán đấu giá hai chiều.
Người môi giới mua khác được với giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh
với những người môi giới bán khác để bán được giá cao nhất. Vì thế mà thị trường
chứng khoán là thị trường có tính tự do cao nhất trong các loại thị trường.
c. Phân loại thị trường chứng khoán.
Về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán gồm có:
Thị trường chứng khoán (TTCK tập trung) là thị trường hoạt động theo đúng các
qui luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu hay
được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho
phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ và công ty kinh
kỷ, tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định.
Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan có
thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan công quyền, thành phố, tỉnh quận,
huyện, thị phát hành và bảo đảm.
Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt và
giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội động
chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính thức chủ yếu được thể hiện bằng các
sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán phi chính thức: (TTCK phi tập trung) là thị trường mua
bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung
những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dịch
Trang 9
chứng khoán. ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài, không có ngày giờ hay
thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán.
d. Chỉ số chứng khoán:
Khi nói đến thị trường chứng khoán không thể không nói đến chỉ số chứng
khoán. Người ta thường coi chỉ số chứng khoán là chiếc "phong vũ biểu" của thị
trường chứng khoán mà ở dạng này hay dạng khác người ta dùng chỉ số chứng
khoán để thể hiện sự phát triển của thị trường và các thành phần của nó. Các chỉ số
này thường được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và các tờ nhật
báo lớn ở các nước chỉ số chứng khoán phản ánh tình hình hoạt động của các công
ty trên thị trường. Nếu các công ty làm ăn có lãi, giá chứng khoán của các công ty
đó sẽ tăng và làm tăng theo chỉ số chứng khoán. Ngược lại, chỉ số chứng khoán sẽ
giảm. Dựa vào chỉ số chứng khoán, các nhà đầu tư có thể xác định được hiệu quả
của một cổ phiếu hoặc một danh mục các chứng khoán để đầu tư vào.
Bất kỳ một thị trường chứng khoán nào cũng có một chỉ số chứng khoán của
riêng nó. Ví dụ thị trường chứng khoán New york có chỉ số Dow Jones, thị trường
chứng khoán Tokyo áp dụng chỉ số Nikkei, Hong Kong áp dụng chỉ số Hang -
xieng, Singapore áp dụng chỉ số "Strai taime"…
Một loại chỉ số chứng khoán được nhiều người biết đến nhất là chỉ số Dow Jones
ra đời cách đây vừa tròn 100 năm (896). Chỉ số này được coi như một cột mốc của
thị trường chứng khoán thế giới. Chỉ số này do hai nhà kinh tế Mỹ Edward David
Jones và Charles Hery Dow đề xuất đo lường mức độ biến động của thị giá cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán New York. Chỉ số Dow Jones bao gồm 65 loại
cổ phiếu được chia thành 3 nhóm chỉ số bình quân nhỏ như sau:
+ Chỉ số Dow Jones công nghiệp bao gồm giá cổ phiếu của 30 công ty hàng đầu
ngành công nghiệp công lại rồi chia cho 1504 (con số này có khi có giảm).
+ Chỉ số Dow Jones vận tải bao gồm giá cổ phiếu của 20 công ty hàng đầu ngành
giao thông vận tải cộng lại chia cho 2785 (con số này có khi tăng).
+ Chỉ số Dow Jones dịch vụ công cộng bao gồm giá cổ phiếu của 15 công ty
hàng đầu ngành dịch vụ công cộng.
Trang 10
Để biết được tình hình phát triển kinh tế gần đây người ta xác định thêm một số
tiêu chuẩn khác. Đó là các điểm giới hạn và điểm liệt. Chẳng hạn điểm giới hạn
của chỉ số Dow Jones là 800, điểm liệt là 700. Nếu chỉ số Dow Jones hàng ngày
vượt quá 800 điểm chung trong nền kinh tế đang đi lên, nếu dưới 800 điểm cho
biết có nguy cơ xảy ra suy thoái kinh tế.
II. CƠ CẤU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng sở giao dịch chứng
khoán. Thông thường một thị trường chứng khoán bao gồm hai thị trường cùng
tham gia (cấu trúc thị trường chứng khoán) là thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp.
1. Thị trường sơ cấp:
Là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động
giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng
thêm qui mô đầu tư vốn. Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại thị trường này là nguồn
tiết kiệm của dân chúng như của một số tổ chức phi tài chính. Thị trường sơ cấp là
thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
2. Thị trường thứ cấp.
Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, là nói đến nơi diễn ra hoạt
động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán tiếp thu
sau lần bán đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại
các loại chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp.
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp không phải
là sự khác nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung, về mục đích của
từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ
cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết kiệm vào công cuộc phát triển
kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất nhộn nhịp có hàng chục,
hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỉ đô la chứng khoán được mua đi bán lại, nhưng
không làm tăng thêm qui mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài
Trang 11
chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể
này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng
khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví dụ như hai
bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường
thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán
để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp
thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người
đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý
thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là
thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường
chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị
trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường
phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt
chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm
bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế.
3. Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán chính thức được tổ chức theo hình thức Sở giao dịch
chứng khoán.
a. Các hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo hình thức "Câu lạc bộ"
tự nguyện của các thành viên. Trong hình thức này, các thành viên của sở giao
dịch (hội viên) tự tổ chức và tự quản lý sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật
không có sự can thiệp của nhà nước. Các hội viên của Sở giao dịch bầu ra Hội
đồng quản trị và Hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Trang 12
Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ
phần có các cổ đông là các công ty thành viên. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện
nay. Sở giao dịch chứng khoán tổ chức dưới hình thức này được hoạt động theo
luật công ty cổ phần, phải nộp thuế cho nhà nước và chịu sự giám sát của một cơ
quan chuyên môn do chính phủ lập ra. Cơ quan chuyên môn này là cơ quan quản
lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quản lý và điều hành sở
giao dịch chứng khoán là Hội đồng quản trị do các công ty chứng khoán thành
viên bầu ra và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán do Hội đồng quản trị đề cử.
Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần
nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của nhà nước. Đây là hình thức phổ
biến ở hầu hết các nước Châu á. Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành cũng tương
tự như hình thức trên nhưng trong thành phần Hội đồng quản trị có một số thành
viên do uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám sát điều hành. Sở giao dịch
chứng khoán quốc gia bổ nhiệm.
b. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán
Uỷ ban chứng khoán quốc gia là cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán do chính phủ thành lập. Uỷ ban chứng khoán quốc gia có nhiệm vụ xác
định loại doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng khoán và loại chứng khoán
nào được mua bán. Uỷ ban này cấp giấy phép và kiểm tra hoạt động của các công
ty môi giới và thực hiện các công việc quản lý nhà nước khác.
Hội đồng quản trị và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán quản lý và điều
hành sở giao dịch chứng khoán. Tất cả các quyết định đều được Hội đồng quản trị
đưa ra. Hội đồng này bao gồm các công ty chứng khoán thành viên của sở giao
dịch chứng khoán, các thành viên liên doanh thậm chí có một số không phải là
thành viên của sở giao dịch chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa
vào. Hội đồng quản trị có quyền quyết định nhưng thành viên nào được phép buôn
bán tại sở giao dịch, những loại chứng khoán nào đủ tiêu chuẩn được phép niêm
yết tại phòng giao dịch. Hội đồng này có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc niêm yết
một chứng khoán nào đó. Hội đồng quản trị có quyền kiểm tra quá trình kinh
doanh của các thành viên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị
Trang 13
có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian
nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch. Nếu phát hiện
vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành
viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở
giao dịch chứng khoán nữa.
c. Thành viên sở giao dịch chứng khoán.
Thành viên sở giao dịch chứng khoán có thể là các cá nhân hoặc các công ty
chứng khoán. Để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán trước hết
công ty phải được công ty có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động.
Phải có số vốn tối thiểu theo quy định, có chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào
tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thoả mãn
các yêu cầu của từng sở giao dịch chứng khoán cụ thể. Một công ty chứng khoán
có thể là thành viên của nhiều sở giao dịch chứng khoán khác nhau nhưng không
được là thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung và ngược lại công ty
chứng khoán có thể thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ khác nhau trên thị trường
chứng khoán.
d. Giám sát thị trường chứng khoán.
Để đảm bảo cho các giao dịch được công bằng đảm bảo lợi ích của các nhà đầu
tư, sở giao dịch